18/06/2018, 17:08

Tìm hiểu “Đông Kinh Nghĩa Thục” qua việc “nghiên cứu” một tình huống nghiên cứu

Tạp chí Tư Tưởng – Số 48 năm 1975 Lê Thời Tân Trong vốn thoại ngữ tiếng Việt ngày nay cụm từ “Đông Kinh Nghĩa Thục” được hiểu là tên của một phong trào yêu nước đầu thế kỉ 20 hoặc tên của một ngôi trường. Vì thế có các cách gọi “Phong trào Đông Kinh Nghĩa ...

622

Tạp chí Tư Tưởng – Số 48 năm 1975

Lê Thời Tân

Trong vốn thoại ngữ tiếng Việt ngày nay cụm từ “Đông Kinh Nghĩa Thục” được hiểu là tên của một phong trào yêu nước đầu thế kỉ 20 hoặc tên của một ngôi trường. Vì thế có các cách gọi “Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục”, “Trường Đông Kinh Nghĩa Thục”. Ngoài ra còn có thể nói tới “Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục” (Hà Nội). Vì “nghĩa thục” giờ đã thành từ cũ nên bạn đọc ngày nay lẽ tự nhiên đều ít nhiều lấy làm “khó hiểu”. Trong hoàn cảnh đó, những bài viết như bài “Từ Khánh Ứng Nghĩa Thục ở Nhật Bản đến Đông Kinh Nghĩa Thục ở Việt Nam” (Chương Thâu) [1] quả thực rất hấp dẫn các độc giả. Điều đáng tiếc là phần I “NGUỒN GỐC CỦA NGHĨA THỤC VÀ KHÁNH ỨNG NGHĨA THỤC” của bài viết này có không ít chỗ giống y nguyên về câu chữ với bài viết đã từng công bố trên một tạp chí xuất bản tại Miền Nam cách đây hơn 40 năm. Đó chính là bài Đại học tư­ lập đầu tiên tại Việt Nam hiện đại của Vũ Đức Bằng đăng trên Tạp chí Tư­ tư­ởng, Sài Gòn, số 48, tháng 1/1975 [2]. Đọc phần I “NGUỒN GỐC CỦA NGHĨA THỤC VÀ KHÁNH ỨNG NGHĨA THỤC” bài viết của tác giả Chương Thâu trong đối sánh với những chỗ liên quan với bài viết của tác giả Vũ Đức Bằng chính cũng là một cách  tạm gọi là “nghiên cứu” một “tình huống nghiên cứu” về danh xưng “Đông Kinh Nghĩa Thục”.  

Ta hãy đọc phần đầu của mục I “NGUỒN GỐC CỦA NGHĨA THỤC VÀ KHÁNH ỨNG NGHĨA THỤC” bài viết của tác giả Chương Thâu trong đối sánh với bài của tác giả Vũ Đức Bằng:

Bài viết của Chương Thâu – tr. 7-8: Bài viết của Vũ Đức Bằng – tr. 106-107:
Nguyên ủy của cái từ “nghĩa thục” (Public school) với tất cả hàm nghĩa của nó, vốn tự nước Anh và do Fukuzawa Yukichi (1835-1901) một võ sĩ đạo và là một học giả uyên bác thời Minh Trị (Meiji), ngư­ời đã sớm tiếp thu được tư­ tưởng tự do dân chủ tư­ sản phư­ơng Tây và lần đầu tiên lập ra ở Nhật Bản. Ông là một học giả uyên bác của Nhật Bản thời Minh Trị (Meiji), ngư­ời đã sớm tiếp thu tư­ tư­ởng tự do dân chủ tư­ sản phư­ơng Tây, lần đầu tiên lập ra ở Nhật Bản một “gijuku” (nghĩa thục) vào năm 1868, lấy tên là Keio Gijuku (Khánh Ứng Nghĩa Thục). “Keio” là để ghi nhớ triều đại trư­ớc chính thể Minh Trị (1865), còn “Gijuku” (nghĩa thục) là cố ý lột tả tinh thần “public school” của ngư­ời Anh. Tinh thần này, theo Fukuzawa, bao gồm bốn tính chất quan trọng, sẽ góp phần làm rạng danh cho ng­ười Nhật, đó là tính tự cư­ờng, ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện đóng góp vào các việc công ích công thiện.

Trường này, từ chỗ chỉ nhằm dạy các học viên lớn tuổi, rồi các học viên lớn tuổi này lại dạy cho các học viên nhỏ tuổi hơn. Cho đến năm 1874, tr­ường đã có một lớp “tiểu học” và “trung học”. Năm 1890, với sự cộng tác của một số giáo sư­ đại học Harvard (Mỹ), trư­ờng mở thêm các lớp “đại học”. Năm 1891, trư­ờng mở thêm một số lớp học ban đêm chuyên dạy các môn thư­ơng mại. Và từ 1905, trư­ờng lại mở thêm một phân khoa chuyên về khoa học kinh doanh ngoài bốn phân khoa đã có sẵn: kinh tế, chính trị, luật học và văn chương. Keio Gijuku trở thành một “Đại học tư­ lập” đầu tiên khá hoàn chỉnh ở trên đất Nhật. Có ý kiến cho rằng, sở dĩ Fukuzawa đứng ra mở đại học tư­ lập đầu tiên này là nhằm “thiết lập một lực lượng đối lập để quân bình hoá khí thế mỗi lúc một mạnh của chính quyền Minh Trị. Tiên sinh quan niệm phải có tiếng nói đối lập, Nhật Bản mới canh tân đư­ợc một cách kiên trì, liên tục” (1). Ý kiến đó có phần xác đáng. Vì rằng, tìm hiểu lịch sử trư­ờng Keio Gijuku và tư­ tư­ởng của ng­ười sáng lập ra trường Keio này, chúng ta thấy rõ nét độc đáo. Công sức của Fukuzawa đóng góp cho sự nghiệp “duy tân” của thời Minh Trị cũng từng ghi nhận sự thật hiển nhiên đó.

——————–

Chú thích (1): Dẫn theo Vũ Đức Bằng – Đại học tư­ lập đầu tiên tại Việt Nam hiện đại, Tạp chí Tư­ tư­ởng, Sài Gòn, số 48, 1-1975, tr. 109.

Cũng như người Anh hãnh diện vì đã thắng Napoléon không phải trên chiến trường Waterloo, nhưng trên ghế những ngôi trường họ gọi là nghĩa thục (Public school)14, Fukuzawa cảm thấy cần phải nuôi dưỡng nơi mỗi công dân Nhựt cắp sách tới trường tình yêu chính thể đại nghị, bởi lẽ định chế này thể hiện rõ rệt nhất truyền thống tự do dân chủ của Tây Phương. Do đó, cùng năm với Minh Trị nguyên niên (1868), Fukuzawa đổi tên trường của ông thành Keio-gijuku, “Keio” là để ghi nhớ triều đại trước chính thể Minh Trị (1865), còn “gijuku” là cố ý lột tả tinh thần “public school” của người Anh. Tinh thần này, theo Fukuzawa, bao gồm bốn đức tính đã làm rạng danh cho người Anh; Đó là tính tự chế, ý chí độc lập, óc tháo vát, và sau hết, lòng tự nguyện đóng góp vào các việc công ích, công thiện.

Thoạt đầu, Fukuzawa chỉ nhằm dạy các học viên lớn tuổi, ông để cho các học viên này tùy sáng kiến dạy lại học viên nhỏ tuổi hơn. Dần dà có sự phân chia ra cấp lớp và kể từ 1874, trường đã có một số lớp “tiểu” và “trung” học. Năm 1890, với sự cộng tác của một số giáo sư Đại Học Harvard (Hoa Kì), trường mở các lớp “đại học”. Năm 1891, trường mở thêm một số lớp đêm chuyên dạy các môn thương mại; và kể từ 1905, trường thiết lập thêm một phân khoa chuyên về khoa học kinh doanh, ngoài bốn phân khoa đã có sẵn: kinh tế, chính trị, luật học và văn chương. Có tài liệu15 cho rằng Fukuzawa sở dĩ đứng ra mở đại học tư lập đầu tiên cho Nhật Bản là nhằm thiết lập một lực lượng đối lập để quân bình hóa khí thế mỗi lúc một mạnh của chính quyền Minh Trị. Tiên sinh quan niệm phải có tiếng nói đối lập, Nhật Bản mới canh tân được một cách kiên trì, liên tục.

———————–

Chú thích 14: Một loại trường không phải do chánh quyền (hoặc giáo quyền) nhưng là của một nhóm tư nhân tự nguyện hùn vốn hiệp sức lại thành lập. Chữ “public” đây không có nghĩa “công lập”, mà là “thiết lập để phụng sự công ích, công thiện”. Các trường này nhấn mạnh việc đào luyện nhân cách. Một thí dụ điển hình là Eton, một “nghĩa thục” thành lập từ khoảng giữa thế kỉ XV đến nay hãy còn hoạt động.

——————–

Chú thích 15: Xin xem Nước Nhật 100 năm sau Minh Trị (Bộ Ngoại Giao Nhật phát hành 1973) tr. 14-15.

Ngoài đối chiếu những đoạn giống về cơ bản câu chữ giữa hai bài viết ra, so sánh những đoạn gần gũi về thông tin cũng là cách giúp ta hiểu sâu hơn vấn đề. Ví dụ đoạn viết về xuất xứ của danh xưng “Keio Gijuku (Khánh Ứng Nghĩa Thục)”. Tác giả Chương Thâu viết: “Ông là một học giả uyên bác của Nhật Bản thời Minh Trị (Meiji), ngư­ời đã sớm tiếp thu tư­ tư­ởng tự do dân chủ tư­ sản phư­ơng Tây, lần đầu tiên lập ra ở Nhật Bản một “gijuku” (nghĩa thục) vào năm 1868, lấy tên là Keio Gijuku (Khánh Ứng Nghĩa Thục)” [1 tr.7].

Tác giả Vũ Đức Bằng viết: “Do đó, cùng năm với Minh Trị nguyên niên (1868), Fukuzawa đổi tên trường của ông thành Keio-gijuku” [2, tr.106].

Cách viết “lần đầu tiên lập ra ở Nhật Bản một “gijuku” (nghĩa thục) vào năm 1868, lấy tên là Keio Gijuku (Khánh Ứng Nghĩa Thục)” hàm ý khẳng định thông tin dứt khoát, ít nhiều thiếu đi một sự uyển chuyển thích hợp với tinh thần của chính bản thân đề mục “NGUỒN GỐC CỦA NGHĨA THỤC VÀ KHÁNH ỨNG NGHĨA THỤC”. Một người có tìm hiểu qua hoạt động của Fukuzawa sẽ thấy sự biểu đạt của Vũ Đức Bằng là thích đáng hơn. Đặt trong sự nghiệp của Fukuzawa ta thấy Keio Gijuku là một sự đổi tên hay cũng có thể nói – đặt tên mới cho một ngôi trường có tiền thân khởi từ trước đó cả một thập niên (1858). Liên quan chi tiết này không ngại tham khảo trình bày của tác giả Đào Thu Vân: “Vậy tên gọi Keio Gijuku/慶応義塾/Khánh Ứng nghĩa thục khi nào được chính thức sử dụng? Theo Niên biểu lịch sử của trường Keio Gijuku ghi lại, tháng 4 năm Keio thứ 4, trường chuyển từ Teppozu Tsukuji về Shiba Shinsenza (nay thuộc Minato-ku, Hamamatsuchou, Tokyo) với quy mô to hơn và với sứ mệnh của nền học thục mới của thời kỳ cận đại mà trường đã đổi tên theo niên hiệu của Nhật thời bấy giờ.” [3 tr.56].[1]

Quay lại với bài viết của tác giả Chương Thâu ta thấy câu mở đầu bài viết không thông về mặt văn phạm. Câu thứ hai giống gần như y nguyên câu văn của Vũ Đức Bằng. Tác giả này viết: “Do đó, cùng năm với Minh Trị nguyên niên (1868), Fukuzawa đổi tên trường của ông thành Keio-gijuku, “Keio” là để ghi nhớ triều đại trước chính thể Minh Trị (1865), còn “gijuku” là cố ý lột tả tinh thần “public school” của người Anh. Tinh thần này, theo Fukuzawa, bao gồm bốn đức tính đã làm rạng danh cho người Anh; Đó là tính tự chế, ý chí độc lập, óc tháo vát, và sau hết, lòng tự nguyện đóng góp vào các việc công ích, công thiện.”[2, tr.106].

 Còn đây là câu văn của Chương Thâu: ““Keio” là để ghi nhớ triều đại trư­ớc chính thể Minh Trị (1865), còn “Gijuku” (nghĩa thục) là cố ý lột tả tinh thần “public school” của ngư­ời Anh. Tinh thần này, theo Fukuzawa, bao gồm bốn tính chất quan trọng, sẽ góp phần làm rạng danh cho ng­ười Nhật, đó là tính tự cư­ờng, ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện đóng góp vào các việc công ích công thiện.” [1, tr.7].

 Nói câu văn của Chương Thâu “giống gần như y nguyên” với câu văn của Vũ Đức Bằng ấy là vì có vài ba từ đã được đổi khác đi. Vậy mà dường như chỉ vì để cho khác đi mà tác giả câu văn buộc đã phải đánh liều nêu phán đoán bất chấp thực tế (có hay không việc Fukuzawa có nhận định tinh thần “public school” sẽ góp phần làm rạng danh cho ng­ười Nhật?). Vũ Đức Bằng diễn giải tinh thần “public school” theo Fukuzawa, bao gồm bốn đức tính”. Chương Thâu dùng từ “tính chất” thay vì dùng từ “đức tính”. Rõ ràng ở đây dùng từ “tính chất” là khá gượng gạo. Một điều đáng chú ý khác là, trong bài viết của Vũ Đức Bằng, cụm từ “public school” khi xuất hiện lần đầu ở trước đó thì đã được chú thích. Trong lúc đó ở bài viết của Chương Thâu cụm từ này do chỗ không có chú thích hay giải thích trước nên không tránh khỏi gây khó hiểu cho người đọc. 

Tiếp theo các câu thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy trong đoạn văn dẫn trên của Chương Thâu cũng giống gần y nguyên văn Vũ Đức Bằng. Tất nhiên không phải là Chương Thâu tuyệt nhiên không nhắc đến Vũ Đức Bằng. Nhưng cách Chương Thâu đề cập Vũ Đức Bằng theo lối chú thích cuối bài “Dẫn theo…” [1, tr.14,chú thích số (1)] gây cảm giác cho rằng đoạn văn mà ông trích dẫn chỉ là chuyển dẫn hoặc nói dẫn lại chứ vốn cũng không phải là văn của Vũ Đức Bằng. Trong lúc người đọc bài viết của Vũ Đức Bằng đều có thể thấy đoạn đó vốn vẫn là lời văn của Vũ Đức Bằng. Nói chính xác đoạn đó là do Vũ Đức Bằng tóm ý từ tài liệu mà ông đọc và nêu rõ nguồn bằng một chú thích. Vũ Đức Bằng diễn đạt một cách xác đáng “Có tài liệu cho rằng,… …” (tài liệu này như ông chú thích nhan đề Nước Nhật 100 năm sau Minh Trị, Bộ Ngoại giao Nhật phát hành, 1973, tr.14-15). Nhưng vấn đề chủ yếu là ở chỗ sau khi dẫn ra và khen ý kiến phán đoán mục đích dựng trường Keio Gijuku dẫn ra đó là xác đáng thì bình luận chứng minh của Chương Thâu cũng không thực sự rõ ràng. Chúng ta không rõ “nét độc đáo” mà tác giả nói thấy được qua việc “tìm hiểu lịch sử trư­ờng Keio Gijuku và tư­ tư­ởng của ng­ười sáng lập ra trường” thực ra là như thế nào và tại sao điều đó lại có thể mang ra chứng minh được cho ý kiến phán đoán mục đích dựng trường Keio Gijuku là “tương đối xác đáng”. Bên cạnh đó chúng ta cũng không hiểu tại sao mà “Công sức của Fukuzawa đóng góp cho sự nghiệp “duy tân” của thời Minh Trị lại “cũng từng ghi nhận sự thật hiển nhiên đó”.

Như đã thấy ở trên – nếu như trường đoạn mở đầu bài viết của Chương Thâu dẫn trên trùng nhiều về câu chữ với phần giữa bài viết của Vũ Đức Bằng (tr.106-107) thì đoạn tiếp theo trong phần mở đầu bài viết của Chương Thâu lại giống với trường đoạn nằm ở phần trước bài viết của Vũ Đức Bằng:

Bài Chương Thâu – tr.7-8 Bài Vũ Đức Bằng – tr.103
Đầu thế kỷ XX, Nhật Bản vừa thắng hai trận lẫy lừng vào những năm 1894-1895 và 1904-1905. Trận đầu, đối với Trung Quốc, ngư­ời đàn anh “tiền đạo văn minh” da vàng; trận sau, đối với Nga hoàng, một n­ước thuộc thế giới văn minh da trắng. Do vậy mà tên tuổi của xứ sở Phù Tang, ng­ười học trò trẻ tuổi của phư­ơng Tây này nổi lên nh­ư sóng cồn. Mặt khác, Nhật Bản vừa thắng hai trận lẫy lừng những năm 1894-1895 và 1904-1905, trận đầu với Trung Quốc, người đàn anh “tiền đạo văn minh” da vàng, trận sau với Nga, một bậc thầy của nền văn minh da trắng, làm cho tên tuổi của Nhật Bản, anh học trò trẻ của Tây Phương, nổi lên như cồn.

Tất nhiên ở đây cũng không giống y nguyên từng chữ. Vậy mà cá biệt cũng vì có chỗ cố ý khác biệt nên thành ra sai. Vũ Đức Bằng viết “trận sau với Nga, một bậc thầy của nền văn minh da trắng”, Chương Thâu viết “trận sau, đối với Nga hoàng, một n­ước thuộc thế giới văn minh da trắng”. Cách viết sao phỏng ý cơ bản nhưng khác biệt đôi chút về từ ngữ như thế vẫn được duy trì trong suốt nửa sau phần I bài viết của Chương Thâu. Xin xem đối chiếu cụ thể:

Bài Chương Thâu – tr.8 Bài Vũ Đức Bằng – tr.103-104-105 và 107
Phan Bội Châu, từ năm 1905 đã tổ chức và lãnh đạo Phong trào Đông Du cầu học khá sôi nổi. Năm 1906, Phan Chu Trinh cũng tìm đường sang Nhật để được chứng kiến tận mắt bài học Âu hoá mà đông đảo các chí sĩ khác của châu Á cũng đến đây để chiêm ngưỡng tại chỗ bài học duy tân của Nhật Bản. Chính tại đây, các chí sĩ Việt Nam mới có dịp nhận thức Phi, Ấn… cũng là xứ thuộc địa nhưng họ đã sớm tìm đến văn minh phương Tây, đã biết mở những trường học kiểu mới, kiểu phương Tây như Keio Gijuku. Và thế là các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh rủ nhau đi “thăm các học đường và khảo sát những công việc chính trị giáo dục của Nhật Bản” (2). Các học đường mà các cụ tham quan, chắc chắn là có Keio Gijuku. Vì sau này, Phan Bội Châu còn khá nhiều lần nhắc lại việc “noi gương chí sĩ Nhật là Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa) đã mở Khánh Ứng Nghĩa Thục (Keio Gijulu)”.

Như vậy là vào khoảng 1906, khi hai nhà chí sĩ Việt Nam là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh tham quan Keio Gijuku tại Tokyo, chắc chắn các cụ đều nhận thấy nó đã là một cơ sở giáo dục vững chãi, độc đáo. Về hàng dọc, ở đây bao gồm cả ba cấp tiểu, trung và đại học; và về hàng ngang, phát triển theo chiều hướng một học viện đa khoa.

———————

Chú thích: (2) Phan Bội Châu Toàn tập, tập 6. Nxb Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây Hà Nội, 2000, tr.158.

Không những Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh nối gót nhau qua Nhật (1905-1906) để được chứng kiến tận mắt bài học Âu hóa, các chí sĩ khác của Châu Á (đặc biệt là Trung Hoa, Ấn Độ và Phi Luật Tân), cũng “đông du” đông đảo để được chiêm ngưỡng tại chỗ bài học duy tân của Nhật. Chính tại đây, các chí sĩ Việt Nam mới có dịp nhận thức Phi cũng là xứ thuộc địa mà họ đã có đại học từ thế kỉ XVII, Ấn Độ, một thuộc địa khác cũng đã có đại học từ giữa thế kỉ XIX. Phan Bội Châu ghi nhận trong tập hồi kí: “Hồi tôi lên Đông Kinh, cụ Tây Hồ [Phan Châu Trinh] cùng đi với tôi, thăm quan khắp các học đường, vào khảo sát khắp những công việc chính trị giáo dục của Nhật Bản.” Rất tiếc Phan Bội Châu đã không cho độc giả biết rõ hơn hai cụ đã thăm viếng những trường nào. Nhưng căn cứ vào các học giả đã nghiên cứu tại Nhật và ngoại quốc6 cũng như các tác giả Việt Nam như Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Bá Thế, chúng ta có thể quả quyết hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã viếng thăm ngôi trường đại học tư lập đầu tiên của Nhật, Keio gijuku, mà các tài liệu cổ truyền của ta thường gọi là Khánh Ứng Nghĩa Thục. [lược đoạn dẫn ý kiến của Nguyễn Hiến Lê] Tác giả Nguyễn Bá Thế9 tuy có nêu ra một ban tham mưu sáng lập gồm bốn vị (Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền) trong đó vắng mặt Phan Châu Trinh, nhưng tựu trung cũng khẳng định rõ rệt là Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập để “noi gương chí sĩ Nhật là Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi) đã mở Khánh Ứng Nghĩa Thục.”

Tr. 107:

Như vậy, vào khoảng 1906, khi hai chí sĩ Việt Nam, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, thăm viếng Đại Học Keio tại Đông Kinh, chắc hẳn hai vị đều nhận chân được một cơ sở giáo dục vững chãi, độc đáo: về hàng dọc bao gồm cả ba cấp tiểu, trung, đại, và về hàng ngang, phát triển theo chiều hướng một học viện đa khoa.

——————-

Chú thích: 9. Nguyễn Bá Thế trong loạt bài giá trị đăng vào khoảng 1970-71 trong nhật báo Đuốc Nhà Nam “Chí Sĩ Trên Đường Duy Tân Cứu Quốc”.

Đối chiếu riêng phần đầu hai đoạn dẫn trên đây ta có thể nhận thấy chính vì áp lực sao phỏng văn ý nhưng muốn diễn đạt cho khác đi đã khiến cho câu văn của Chương Thâu đôi khi thành ra lủng củng: “Năm 1906, Phan Chu Trinh cũng tìm đường sang Nhật để được chứng kiến tận mắt bài học Âu hoá mà đông đảo các chí sĩ khác của châu Á cũng đến đây để chiêm ngưỡng tại chỗ bài học duy tân của Nhật Bản.” Ngoài ra cũng vì sao phỏng cục bộ ý văn từ một ngữ trình khác nên có thông tin trở nên mơ hồ. Như ta thấy trong ngữ trình của Vũ Đức Bằng, “Phi” là gọi tắt của “Phi Luật Tân” (phiên âm ưa dùng tại miền Nam trước 1975) đã được nói rõ (khi liệt kê quốc tịch của các chí sĩ châu Á cùng có mặt tại Nhật) ở câu văn phía trước. Thành ra tới câu văn sau tác giả đã gọi tắt mà không sợ nhầm lẫn sang Phi châu. Vả chăng trong ngữ trình của Vũ Đức Bằng, “Phi Luật Tân” rồi “Phi” đều cùng gắn kết tô đậm ý các quốc gia châu Á cùng thân phận thuộc địa như Việt Nam thời hai cụ Phan. Trong khi đó vì chỉ sao phỏng cục bộ văn ý từ chỉ riêng một câu của Vũ Đức Bằng mà thành ra cách gọi “Phi, Ấn” trong câu văn Chương Thâu một mặt làm người đọc sao nhãng chủ đề “chí sĩ các nước châu Á đông du Nhật Bản” và mặt khác cũng dễ khiến đọc giả dễ nhầm sang chỉ châu Phi (hoặc ít ra cũng gây cảm giác mơ hồ vì ngay nay cách gọi Phi (Luật Tân) đã không còn phổ biến).

Nếu như việc sao phỏng một cách cục bộ văn ý trong lúc vẫn muốn biến đổi cho khác đi về câu chữ khiến cho tác giả tự chuốc lấy những lúng túng trong diễn đạt thì việc sao phỏng cả một chủ đề mà vẫn muốn tránh tiếng “nói theo” lại khiến cho lập luận của cả một trường đoạn hóa ra dễ dãi. Trong đoạn văn trên, Vũ Đức Bằng nêu giả thiết cho rằng hai vị chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã đến thăm trường Keio gijuku. Ông tránh phỏng đoán cá nhân chủ quan và kê dẫn rộng rãi ý kiến của các học giả đi trước. Vũ Đức Bằng không viết kiểu “Và thế là các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh rủ nhau đi “thăm các học đường và khảo sát những công việc chính trị giáo dục của Nhật Bản” [chú thích: Phan Bội Châu Toàn tập]. Các học đường mà các cụ tham quan, chắc chắn là có Keio Gijuku.” Cách viết “Và thế là các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh rủ nhau đi…” hàm cái ý kể một chuyện đã xảy ra hơn là một sự miêu thuật dữ liệu có thể có. Cụm từ “Và thế là…” cũng cho thấy hành động được trần thuật phía sau xảy ra như là một hệ quả khởi dẫn bởi sự kiện phía trước (tức việc “Chính tại đây, các chí sĩ Việt Nam mới có dịp nhận thức Phi, Ấn… cũng là xứ thuộc địa nhưng họ đã sớm tìm đến văn minh phương Tây, đã biết mở những trường học kiểu mới, kiểu phương Tây như Keio Gijuku.”).  Trình bày của Chương Thâu ở đây biểu đạt một cách đơn giản hóa rằng hai nhà chí sĩ Việt Nam nhân đến Nhật và có dịp biết rằng vài ba thuộc địa ở Châu Á biết mở trường kiểu phương Tây như Keio Gijuku của Nhật bèn lên đường đi thăm trường này. Trong lúc đó trình bày của Vũ Đức Bằng không hề có ý khẳng định rõ rằng vì hai cụ biết vài ba nước thuộc địa ở châu Á mở trường kiểu phương Tây như Keio Gijuku nên cùng nhau đi thăm trường này. Ông miêu thuật một cách chừng mực “Chính tại đây, các chí sĩ Việt Nam mới có dịp nhận thức Phi cũng là xứ thuộc địa mà họ đã có đại học từ thế kỉ XVII, Ấn Độ, một thuộc địa khác cũng đã có đại học từ giữa thế kỉ XIX. Phan Bội Châu ghi nhận trong tập hồi kí: “Hồi tôi lên Đông Kinh, cụ Tây Hồ [Phan Châu Trinh] cùng đi với tôi, thăm quan khắp các học đường, vào khảo sát khắp những công việc chính trị giáo dục của Nhật Bản.” Rất tiếc Phan Bội Châu đã không cho độc giả biết rõ hơn hai cụ đã thăm viếng những trường nào. Nhưng căn cứ vào các học giả đã nghiên cứu tại Nhật và ngoại quốc6 cũng như các tác giả Việt Nam như Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Bá Thế, chúng ta có thể quả quyết hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã viếng thăm ngôi trường đại học tư lập đầu tiên của Nhật, Keio gijuku, mà các tài liệu cổ truyền của ta thường gọi là Khánh Ứng Nghĩa Thục.”.

Như ta đọc thấy, Vũ Đức Bằng ghi công các nhà nghiên cứu đi trước (chú thích 6) trong việc đoán định hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã viếng thăm ngôi trường Keio gijuku. Ông cũng tỏ thái độ chia sẻ niềm tin tưởng rằng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã viếng thăm ngôi trường đại học tư lập đầu tiên của Nhật Keio gijuku cùng các học giả mà ông trích dẫn rõ ràng. Thái độ đó khác xa với lập luận đơn giản hóa của Chương Thâu: “Các học đường mà các cụ tham quan, chắc chắn là có Keio Gijuku. Vì sau này, Phan Bội Châu còn khá nhiều lần nhắc lại việc “noi gương chí sĩ Nhật là Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa) đã mở Khánh Ứng Nghĩa Thục (Keio Gijulu)“.”. Làm sao mà ta có thể nói chỉ vì về sau này Phan Bội Châu nhiều lần nhắc đến Fukuzawa đã mở Khánh Ứng Nghĩa Thục (Keio Gijuku) mà khẳng định được trước đó ông cùng Phan Chu Trinh chắc chắn đã đến thăm trường này! Việc trích dẫn lời Phan Bội Châu làm chứng cho việc khẳng định cụ Phan có đến thăm Keio Gijuku cũng không có dẫn nguồn. Trong khi đó trình bày của Vũ Đức Bằng cho thấy đó dường như lại là lời dẫn từ bài viết của Nguyễn Bá Thế (xem chú thích số 8 bài viết Vũ Đức Bằng).

Ngoài ra, như ta đã thấy – kê dẫn của Vũ Đức Bằng trong bài viết của ông cho thấy câu chuyện hai nhà chí sĩ Việt Nam có đến thăm trường Keio gijuku đã được nêu lên bởi những học giả đi trước. Vậy mà tác giả Chương Thâu trong bài viết của mình lại nêu vấn đề đó như là một việc lần đầu tiên được nêu ra trong khi tài liệu tham khảo kê dẫn cuối bài của chính ông cũng lần lượt nhắc tới các sách viết về Đông Kinh Nghĩa Thục của Nguyễn Hiến Lê cũng như cả bài viết của Vũ Đức Bằng. Có thể nói việc trình bày một vấn đề với thái độ cứ như là lần đầu tiên vấn đề đó được trình bày trong lúc nó từng được trình bày ở những tài liệu mà chính mình có nêu thành tài liệu tham khảo như kiểu trường hợp Chương Thâu mà chúng ta vừa phân tích quả thật không thể không khiến cho người đọc ngạc nhiên.

Như đã nói từ đầu bài viết vì “nghĩa thục” và thậm chí cả cách gọi “Đông Kinh” giờ đã thành từ cũ nên bạn đọc ngày nay lẽ tự nhiên đều ít nhiều lấy làm “khó hiểu”. Các học giả nghiên cứu về Đông Kinh Nghĩa Thục cũng thường chú ý tìm hiểu danh xưng này. Chương Thâu trong bài viết của mình cũng cố gắng cắt nghĩa tên gọi “Đông Kinh” nhưng là chỉ ở chú thích. Chú thích này thuộc phần cuối phần I bài viết của ông:[2]

Trên cơ sở những hiểu biết về một trường học đào tạo nhân tài xây dựng đất nước kiểu Keio ấy, các vị sĩ phu nho học Việt Nam yêu nước đã mô phỏng theo Keio Gijuku và quyết định sẽ thành lập ở Hà Nội “nghĩa thục” lấy tên là Đông Kinh Nghĩa Thục (Đông Kinh Free School)(3).

——————–

Chú thích: (3) Đông Kinh là tên của Kinh thành Thăng Long thời nhà Hồ (Đông Đô). Nhưng Đông Kinh dưới thời Pháp thuộc cũng có nghĩa là Bắc Kỳ (Tonkin). Và từ Đông Kinh cũng chính là phiên âm chữ Hán của từ Tokyo nữa. Không rõ là khi đặt tên “Đông Kinh” Nghĩa thục, các cụ có liên tưởng đến từ Tokyo, ở đó có một “Nghĩa thục” mà các cụ mô phỏng?

Theo chúng tôi trong một bài viết tập trung vào chủ đề sự ra đời của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, tác giả không nên để phần cắt nghĩa “lí do” đặt tên trường xuống chú thích (nhất là khi khảo luận sự ra đời của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục được đặt trong mạch lập luận khởi từ việc tường giải mối liên hệ giữa nó với công cuộc Minh Trị Duy Tân cũng như việc lập Khánh Ứng Nghĩa Thục ở Tokyo nước Nhật).

Nhưng điều đáng chú ý hơn là ở bản thân chi tiết “Đông Kinh là tên của Kinh thành Thăng Long thời nhà Hồ (Đông Đô)” [3] trong chú thích này tỏ ra không phù hợp thực tế lịch sử. “Đông Kinh” là tên gọi Kinh thành Thăng Long thời Lê sơ. Thời nhà Hồ vì dời về Tây Đô (Thanh Hóa) nên gọi cựu kinh Thăng Long là Đông Đô.[4] Vả chăng cách viết “Đông Kinh là tên của Kinh thành Thăng Long thời nhà Hồ (Đông Đô)” cũng gây khó hiểu – đã nói “Đông Kinh là tên của Kinh thành Thăng Long thời nhà Hồ” thì sao lại mở ngoặc chua thêm tên gọi Đông Đô? Trong lúc đáng ra phần trong ngoặc đó nên là một diễn giải về sự xác định kinh đô phía Tây và kinh đô phía Đông thời nhà Hồ – chẳng hạn cần diễn giải rằng Hồ Quý Ly định đô ở Thanh Hóa gọi Tây Đô nên Thăng Long được gọi là Đông Đô thì mới xác đáng.

Tất nhiên không ai cấm việc phán đoán “thực ý” của các nhà chí sĩ khi đặt tên cho ngôi trường mới của mình nhưng việc phán đoán xác đáng thì khác với việc “giải thích tràn”. Chú thích trên của Chương Thâu dường như thành ra một liệt kê kiểu từ điển “sở chỉ” của từ “Đông Kinh” trong tiếng Việt. Trên tinh thần chung việc chú thích này phải không ngoài chủ đề phán đoán ý hướng “chọn từ đặt tên” của các nhà khai sinh ngôi trường (cái ý hướng có thể được khẳng định công nhiên ở một tài liệu nào đó lưu lại bởi chính nhóm người khai sinh hoặc giả cũng không nhất thiết gói gọn vào trong cái gọi là “chủ đích” đặt tên cụ thể). Nhưng sự thể là không chỉ mỗi Chương Thâu cố liên hệ đến một “Đông Kinh nhà Hồ” khi tìm cách giải thích tên gọi “Đông Kinh Nghĩa Thục”. Ý hướng nhiệt tình muốn nối kết một triều đại cải cách với một phong trào duy tân qua cắt nghĩa cái danh xưng “Đông Kinh” dẫn trên không tránh khỏi gây nên cảm giác suy diễn. Vậy mà, ngay cả sau khi đã “đính chính” lại “Đông Kinh” như là tên gọi kinh thành không phải có từ thời nhà Hồ mà có từ thời Lê Thái Tổ thì ta cũng chẳng nên cứ một mực khẳng định chắc nịch rằng các nhà chí sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục chính là muốn nhắc lại quá khứ thủ đô ngày đất nước đã được giải phóng. Vì dù sao luận như vậy cũng không tránh khỏi ý suy diễn.[5] Thế nên liên quan đến vấn đề này, một người từng đọc bài viết của Vũ Đức Bằng đều cảm thấy phỏng đoán tên gọi Đông Kinh trong danh xưng “Đông Kinh Nghĩa Thục” của ông được biểu đạt một cách chừng mực mà cũng cô đọng: “Đàng khác, chính cái lên trường “Đông Kinh” mà các sĩ phu sáng lập đã chọn, ngoài ý muốn gợi lại quá trình văn học của đế đô Hà Nội, cũng còn bao hàm rõ rệt mối liên hệ giữa ngôi trường mới và kinh đô xứ Phù Tang.” [2, tr.106].

Thời gian không ngừng trôi. Đông Kinh Nghĩa Thục cách chúng ta mỗi ngày một xa. Vậy mà những bài học mà phong trào lưu lại chưa bao giờ lại gần chúng ta đến thế. Nhân dịp 107 năm ra đời phong trào này đọc lại vài bài nghiên cứu liên quan theo lối đối chiếu tay đôi về mặt văn bản cũng là một cách mà chúng tôi mượn để tạm diễn đạt thành nhan đề bài viết này – “Tìm hiểu “Đông Kinh Nghĩa Thục” qua việc “nghiên cứu” một tình huống nghiên cứu”. Trong nhan đề này cụm từ tình huống nghiên cứu gây cảm giác long trọng thừa thãi nào đó. Thực ra đó chỉ là một cách khái quát cái sự thể giống và khác trong biểu đạt kết quả nghiên cứu giữa hai bài viết. Còn từ “nghiên cứu” sở dĩ để trong nháy – ấy là vì bài viết – như đã thấy cũng chỉ làm mỗi việc nhỏ nhặt là đối chiếu văn bản giữa hai bài báo. Mặc dù vậy chúng tôi mạo muội tin rằng như thế cũng là cách để tìm hiểu cụ thể thêm nữa “Đông Kinh Nghĩa Thục” – một ánh chớp sao băng trên bầu trời văn hóa Việt Nam.

Hà Nội, Kỉ niệm 107 năm Đông Kinh

Nghĩa Thục và 42 năm Giải phóng Miền Nam

Chú thích:

[1] Tác giả Đào Thu Vân chú rõ nguồn tham khảo thông tin này từ tài liệu慶応義塾, 慶応義塾豆百科 (Một trăm đầu mục về Keio Gijuku), (慶応義塾発行: 東京, 1996). [3 tr.56].

[2] Độc giả có thể ít nhiều cảm thấy đột ngột khi tác giả bài viết bỗng bất ngờ mở ngoặc chua tiếng Anh ra sau danh xưng “Đông Kinh Nghĩa Thục” như vậy. Việc dùng hình thức mở ngoặc đơn chua thêm tiếng Anh trong trường hợp này dường như ngụ ý đó là tên gọi “quốc tế” hoặc cũng có thể hiểu đó là “giải thích” cách hiểu phổ thông. Người đã đọc bài của Vũ Đức Bằng chỉ bắt gặp cụm từ tiếng Anh này ở phần chú thích – nêu tên một bài viết bằng tiếng Anh về Đông Kinh Nghĩa Thục (chú thích 1: Một số định đề trong bài được viết vào cuối 1968, và đã được Viện Đại Học Hawaii xuất bản, xin xem cùng tác giả, “The Đong Kinh Free School Movement, 1907-1908”, Aspects of Vietnamese History (University of Hawaii Press, 1973) tr. 30-95.”. Nhân tiện cũng xin nói thêm, Vũ Đức Bằng rất có thể là người đã đặt cụm từ “đại học tư lập” (từ trước tới nay ta vẫn thường quen nghe nói “đại học tư thục” hay “đại học dân lập”). Cụm từ “đại học tư lập” cũng thấy được dùng trong bài viết của Chương Thâu.

[3] Tác giả cũng từng chú như thế trong Đông Kinh Nghĩa Thục và Phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX, Nxb Văn Hóa – Thông Tin, Hà Nội, 1997 (xem trang 38, 41).

[4] Xem Đại Việt sử ký toàn thư Toàn thư (tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993).

[5] Liên quan đến câu chuyện danh xưng “Đông Kinh” trong định danh “Đông Kinh Nghĩa Thục” còn có ý kiến gắn từ Đông Kinh ở đây với câu chuyện gọi trại “Tonkin”của người Pháp nhân đó đi đến khẳng định Đông Kinh trong “Đông Kinh Nghĩa Thục” là chỉ Bắc Kì. Đây đó thấy cách “dịch” sang tiếng Pháp dùng phiên âm “Tonkin”: L’école libre du Tonkin. Thậm chí có cả cách “dịch” sang tiếng Anh nhưng vẫn viết “Tonkin”: The Tonkin Free School.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Chương Thâu, “Từ Khánh Ứng Nghĩa Thục ở Nhật Bản đến Đông Kinh Nghĩa Thục ở Việt Nam”, Tạp chí  Nghiên cứu Lịch sử, số 2/2007.

[2] Vũ Đức Bằng, “Đại học tư­ lập đầu tiên tại Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Tư­ tư­ởng, Sài Gòn, số 48, tháng 1/1975.

[3] Đào Thu Vân, “Nhận thức về giáo dục Nhật Bản của trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX và dấu ấn của mô hình Khánh Ứng Nghĩa Thục (Keio Gijuku) trong phong trào Nghĩa thục ở Việt Nam”, Tạp chí phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng, số 59/2014.

0