13/01/2018, 10:24

Thuyết minh về cây lúa – Văn hay lớp 8

Thuyết minh về cây lúa – Văn hay lớp 8 Thuyết minh về cây lúa – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Quảng Ngãi Từ xa xưa cây lúa đã gắn bó với nhân dân ta, đi từ Bắc vào Nam những cánh đồng lúa xanh mướt mới đẹp làm sao? cây lúa đã được xuất hiện rất nhiều trong những ...

Thuyết minh về cây lúa – Văn hay lớp 8

Thuyết minh về cây lúa – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Quảng Ngãi

Từ xa xưa cây lúa đã gắn bó với nhân dân ta, đi từ Bắc vào Nam những cánh đồng lúa xanh mướt mới đẹp làm sao? cây lúa đã được xuất hiện rất nhiều trong những bài văn, bài thơ hay, là nguồn cảm hứng sáng tạo không ngừng của nhiều họa sỹ. Từ thời ông cha chúng ta nghề trồng lúa đã gắn bó và là món ăn tinh thần không thể thiếu, trước kia trồng lúa là nghề chính của ông cha ta, ngày này với sự phát triển của công nghiệp hóa, điện đại hóa, đất nước có nhiều sự đổi thay, nhưng cây lúa vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống của người nông dân Việt Nam,  nước chúng ta là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và chất lượng gạo đạt chất lượng cao,  là nước có ngành nông nghiệp lúa nước lớn nhất thế giới.

Câu ca dao bao đời nay người dân chúng ta vẫn dành để nói về cây lúa:

” Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

Để có thể thu hoạch lúa là cả một quá trình vất vả của những người nông dân, gia đình tôi có truyền thống làm nghề trồng lúa, từ thời Cụ tôi, ông tôi, bố tôi đều đi theo nghề trồng lúa nước này, từ bé được gắn bó với những cây lúa và những người nông dân thật thà chất phát làm tôi thêm yêu cuộc sống, yêu con người hơn. Tôi còn nhớ hồi nhỏ được ngồi với ông nội, ông lại kể chuyện cho tôi nghe, ông nói hồi xưa đất trồng lúa còn khô cằn lắm không được tơi xốp như bây giờ, lúc đó những người nông dân đã cày bừa, cố gắng vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết và thiên nhiên để trồng ra cây lúa xanh mướt và thu hoạch được những hạt gạo dẻo thơm.

Nước ta có rất nhiều loại giống lúa khác nhau tùy theo từng vùng miền, khí hậu, mỗi vùng miền thích hợp với các loại lúa khác nhau, thích hợp để trồng lúa nhất là những vùng nước ngọt, những vùng đất quá mặn hoặc quá phèn cây lúa khó có thể lên được. Có rất nhiều loại lúa như lúa nếp, lúa tẻ, lúa cạn, lúa nước nông, lúa nước sâu, chủ yếu được chia ra là cây lúa nếp và lúa tẻ, lúa nếp thường để làm bánh, thổi xôi, còn lúa tẻ là lúa dùng để ăn trong các bữa cơm hàng ngày… giống lúa cũng có nhiều loại, trước kia ông cha ta hay trồng giống lúa NN8, ngày nay thì miền Nam hay trồng giống IR76, miền Bắc thì trồng các loại giống C70, DT10, A20…

Để trồng được cây lúa thì người nông dân phải giải qua rất nhiều công đoạn, từ gieo mạ, sau đó đến cấy mạ, và rồi chăm bẵm, tưới tắm, nhổ cỏ, phun sâu… mới có được những hạt gạo dẻo thơm chúng ta ăn hàng ngày.

Ở nước ta có 3 vụ lúa chính đó là vụ Đông- Xuân, vụ Hè – Thu, vụ lúa mùa, những đặc sản từ cây lúa mang đậm nét truyền thống dân tộc đó là bánh chưng, bánh dày, theo truyết xa xưa Lang Liêu được truyền ngôi do làm bánh chưng và bánh dày dâng lên vua, Lang Liêu được thần báo mộng trong giấc mơ ” Trong đất trời không gì quý bằng hạt gạo, chỉ có gạo mới nuôi sống con người và không bao giờ chán, các thứ khác tuy ngon nhưng hiếm, người không làm ra được” Lang Liêu nghe theo lời thần dạy và đã làm chiếc bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho trời, và chàng đã được lên ngôi vị thay cha và trở thành ông vua tốt, ngày này ngoài các món đặc sản như bánh chưng, bánh dày thì còn có bánh cốm cũng là một đặc sản từ cây lúa.

Cây lúa chính là người bạn thân thiết của người nông dân  và là nguồn lương thực quý nhất nước ta, có tầm quan trọng rất lớn về kinh tế, cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ cho chúng ta mà còn trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần của người dân Việt Nam, ngày này có nhiều loại ăn nhanh nhưng cây lúa vẫn không thay giá trị về nhiều mặt, vẫn không thể thiếu trong các bữa cơm hàng ngày, và là người bạn đồng hành của người dân Việt Nam theo năm tháng.

Thuyết minh về cây lúa – Bài làm số 2

Từ xa xưa, rất lâu rồi hình ảnh cây lúa nặng trĩu hạt vào mùa thu hoạch đã là biểu tượng của người nông dân, từ đồng bằng đến vùng núi, từ miền xuôi đến miền ngược, đâu dâu cũng có bóng dáng của họ hàng nhà chị lúa. Một nhà thơ đã từng viết:

” Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”

Cây lúa đã gắn bó với người nông dân Việt Nam từ bao  đời nay, thân thuộc như người thân không thể thiếu của gia đình. Thật tuyệt vời biết bao, thứ mà nuôi chúng ta khôn lớn không phải ai khác mà là chính chị lúa cần cù sớm trưa. Với thân hình mảnh mai, cao, gầy, chất đẹp của người con gái, chị đã làm bao họ hàng nhà cây khác phải ghen tị với một người sắc nước hương trời, giúp ích cho bao con người Việt Nam. Lá lúa dài, mảnh và sắc, khi còn thì con gái lá có màu xanh tươi trẻ, tràn trề nhựa sống, còn khi già rồi, lá lúa có mùa vàng bội thu, lúc lúa còn non, lá lúa có lòng nhỏ, gọi là đòng đòng. Có nhiều loại lúa: lúa nếp, lúa tẻ…

Từ lúc lúa còn non bác nông dân đã thường xuyên chăm sóc, diệt sâu bọ, phân bón cho cây. Lúa lớn hơn một chút, họ thường tát nước để cây có đủ chất dinh dưỡng, họ thường phun các loại phân lân, phân kali, phân đạm…, cùng với sự phát triển của khoa học- công nghệ mỗi năm có nhiệm vụ mùa nối tiếp nhau thay cho lúc trước chỉ có hai vụ, vụ chiêm và vụ thu. Người nông dân Việt Nam từ xa xưa đã sống dựa vào cây lúa, lúa là hạt ngọc của trời, tinh hoa của đất trời Việt. Cây lúa cho gạo nuôi sống con người Việt. Các cụ đời xưa đã nói ” Hàng trăm thứ ngon vật la vẫn không sánh bằng hạt gạo nhà ta đâu”, gạo nuôi sống con người và còn phục vụ bộ đôi cu Hồ trên chiến trường gian khổ, những cô gái thanh niên xung phong đã chở hàng tấn gạo bằng xe đạp thồ, vượt qua bao rừng sâu đẻ tiếp tế lương thực cho bộ đội.

Ngoài ra, gạo không những nuôi sống con người mà còn làm được nhiều thứ bánh ngon, bổ dưỡng. Gạo nếp là một thành phần vô cùng quan trọng trong bánh chưng, bánh dày, hai loại bánh truyền thống của người dân Việt Nam mỗi khi đến dịp Tết Nguyên Đán.

Lúa nếp non còn làm nên bánh cốm – loại bánh thể hiện sự thanh lịch của người Tràng An xưa, trong những ngày lễ gia tiên, ngày rằm, người ta thường lấy gạo nếp đồ xôi để cúng ông bà tổ tiên, gạo còn làm được nhiều  bánh như bánh giò, bánh khúc, bánh đa,..

Nói chung gạo là thực phẩm không thể thiếu đối với người dân Việt Nam, nếu không có gạo thì văn hóa Việt nam  khó có thể phong phú và giàu bản sắc dân tộc.

Cây lúa là một biểu tượng đặc trưng của người dân Việt nam. Cây lúa đã gắn bó với người nông dân từ bao đời nay và cũng gắn bó với tuổi thơ của chúng tôi qua những bài văn về cây lúa. Có lẽ tôi và bao nhiêu người Việt nam khác sẽ không bao giờ quên được hương vị của hạt gạo đã nuôi sống chúng tôi từng ngày.

Thuyết minh về cây lúa – Bài làm số 3

“Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”

Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó thân thiết với con người, làng quê Việt Nam.Bằng hạt gạo – hạt ngọc trời ban cho, Lang Liêu đã làm nên bánh chưng, bánh giầy tượng trưng cho trời và đất – để kính dâng vua Hùng. Chính vì thế, cây lúa nước đã trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt. Hình ảnh của cây lúa và người nông dân đã trở thành những mảnh màu không thể thiếu trong bức tranh của làng quê Việt Nam bây giờ và mãi mãi về sau.

Lúa là một thực vật quý giá, là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm ngũ cốc, là cây lương thực chính của người Việt Nam nói riêng và người dân Châu Á nói chung. Lúa thuộc loài thân thảo. Thân cây lúa tròn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng ruột, chỉ có phần mắt là đặc. Lá lúa có phiến dài và mỏng,mọc bao quanh thân, mặt lá nhám, gân lá chạy song song. Tùy thời kì sinh trưởng, phát triền mà lá lúa có màu khác nhau.Khi lúa chín ngả sang màu vàng. Rễ của cây lúa không dài lắm, thường mọc với nhau thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi thân cây. Hoa lúa nhỏ nhắn, mọc thành nhiều chùm dài. Điều đặc biệt của cây lúa mà ít ai để ý đến. Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa không có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhuỵ ở bên trong. Lúc hoa lúa nở, đầu nhuỵ thò ra ngoài, có một chùm lông để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi biến thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín vàng.

Trước đây, người Việt chỉ có hai vụ lúa:chiêm và mùa. Ngày nay, khoa học phát triển, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nản mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng.Ruộng phải cày bừa,làm đất, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi (đang thì con gái) lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi lúa làm đòng, trổ bông rồi hạt lúa chắc hạt,chín vàng.Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô,xay xát thành hạt gạo…Biết bao công sức của nhà nông để có hạt gạo nuôi sống con người.

Hạt gạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống vật chất của chúng ta.Hạt gạo cung cấp chất dinh dưỡng thiết yếu,rất cần thiết cho cơ thể con người.Ngoài việc nuôi sống con người,hạt lúa,hạt gạo còn gắn bó với đời sống tinh thần của người Việt.Có nhiều loại gạo:gạo tẻ, gạo nếp…Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh truyền thống của con người Việt Nam trong dịp Tết Nguyên Đán.Bánh chưng, bánh giầy còn gắn liền với Lang Liêu thời vua Hùng dựng nước. Lúa nếp non còn dùng để làm cốm- một thức quà thanh lịch của người Hà Nội.Gạo nếp dùng để đồ các loại xôi – một món đồ lễ không thể thiếu trên bàn thờ của người Việt Nam trong ngày Tết và ngày cúng giỗ tổ tiên. Đồng thời xôi cũng là thức quà quen thuộc hằng ngày. Từ lúa gạo, người Việt còn làm rất nhiều loại bánh như:bánh đa,bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ,bánh nếp,bánh phở,cháo…Nếu không có gạo, thật là khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực mang bản sắc văn hóa Việt Nam.

Ngày nay, nước ta đã lai tạo được gần 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia.Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu gạo.

Tóm lại, cây lúa có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà chủ yếu còn dựa vào nông nghiệp. Cây lúa bao đời là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần. Mãi mãi vẫn còn nghe mọi người nhắc nhau những vần điệu ca dao thấp thoáng bóng hình con trâu và cây lúa:

“Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.

Thuyết minh về cây lúa – Bài làm số 4

Khắp dải đất hình chữ S củaViệt Nam, chúng ta rất dễ bắt gặp những cánh đồng lúa xanh mát đương thì con gái hay những “ biển vàng” vào những ngày mùa lúa chín. Cây lúa được xem là biểu tượng cho nền văn hóa bao đời này của cha ông ta. Chính vì thế mà cây lúa nước cho đến hôm nay đã đi vào đời sống mỗi người con đất Việt như một lẽ sống và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Hạt gạo được coi là hạt “ngọc thực”, chính vì thế mà lúa được xem là một thực vật quý giá, là cây trồng – cây lương thực chính của người Việt Nam. Cây lúa sống chủ yếu ở dưới bùn nước cho nên được gọi là lúa nước. Lúa thuộc loài thân thảo. Thân lúa tròn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng ruột, giống như những lóng nứa.

Rễ của cây lúa thường mọc thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa đứng vững, đồng thời rễ làm nhiệm vụ hút dinh dưỡng để nuôi cây. Lá lúa có phiến dài và mỏng, mọc bao quanh thân, mặt lá nhám, gân lá chạy song song. Tùy vào từng thời kì sinh trưởng, phát triền mà lá lúa có màu sắc khác nhau. Lúc nảy mầm người ta hay gọi lá lúa có màu xanh lá mạ, đến “thì con gái” lá lúa có màu xanh sẫm hơn. Giai đoạn lúa chín, lá ngả dần sang màu vàng.

“Hoa” lúa mọc thành nhiều chùm dài và không có cánh, chỉ có vỏ nhám (hay còn gọi là vỏ trấu) bao bọc nhụy ở bên trong. Có một điều hết sức đặc biệt đó là người ta không ai gọi là hoa lúa, “quả lúa” cả mà gọi là bông lúa, hạt lúa. Lúc hoa lúa nở, đầu nhị thò ra ngoài vỏ nhám, đó chính là “chùm lông” chứa hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn và qua thời gian, chất tinh bột trong vỏ nhám dần khô đặc lại và biến thành hạt lúa.

Để có được bát cơm trắng ngần thì người nông dân phải trải qua nhiều công đoạn trồng lúa. Trước tiên, nhà nông chọn những giống lúa tốt, đem ủ rồi gieo mạ. Đến khi cây mạ được 20 ngày tuổi thì đem nhổ cấy xuống ruộng nước. Ruộng này phải được cày xới, làm bờ, bón phân trước khi cấy mạ xuống. Không những thế, trong tuần đầu mới cấy mạ non, ruộng lúc nào cũng phải có sâm sấp nước. Khi lúa bắt đầu đẻ nhánh, người nông dân phải làm sạch cỏ, bón phân thúc và diệt sâu bọ. Đến khi đồng lúa chín vàng, người nông dân lại gặt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo. Thế mới biết rằng hạt gạo nuôi sống con người là rất quý giá và nó đúng là hạt “ngọc thực” vì biết bao mồ hôi công sức của người nông dân mới có được.

Từ xa xưa, hạt gạo đã đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Trong bữa cơm hàng ngày không thể không thiếu niêu cơm từ những hạt gạo ngoài đồng. Người ta có thể ăn những món ăn khác trong vài ngày nhưng không ai có thể không ăn cơm cả đời được. Hạt gạo giúp nuôi sống con người và đóng vai trò là một trong bốn cây lương thực chính của con con người.

Không những hiện diện trong đời sống vật chất mà hạt lúa, hạt gạo còn gắn bó với đời sống tinh thần của người Việt. Từ thời vua Hùng thứ 18, Lang Liêu nhờ thần báo mộng mà đã biết dùng hạt gạ để làm bánh chưng, bánh dầy tế lễ tổ tiên. Đó như một biểu tượng cho nền văn hóa nông nghiệp lúa nước lâu đời của nước Việt ta. Ngày nay, hạt lúa, hạt gạo vẫn còn nguyên những giá trị trong đời sống tinh thần của con người. Những thức quà như các loại xôi, bánh cốm, bánh đa, bánh đúc, bánh nếp, bánh tẻ, bánh phở, cháo hoa….. đều được làm từ hạt gạo mà ra cả. Từ đó ta cũng hiểu thêm rằng, nếu không có cây lúa, hạt gạo thì không thể có một nền văn hóa ẩm thực mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.

Cho đến nay, nước ta đã lai tạo và phát triển được gần 30 giống lúa tốt, cho năng suất cao, giúp ích rất nhiều cho đời sống của nhân dân. Chính vì thế mà từ một nước đói nghèo, Việt Nam đã trở thành nước có tỉ trọng xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, chỉ sau Thái Lan.

Có thể nói rằng, cây lúa có một vai trò quan trọng trong đời sống con người và trong nền kinh tế của Việt Nam từ trước đến nay. Cây lúa đã gắn bó với người nông dân Việt Nam và trở thành một biểu tượng cho đất nước với nền văn minh lúa nước đậm đà bản sắc dân tộc. Và vì thế, dù có đi đâu ngàn dặm thì những người con của đất Việt vẫn tự hào hát lên:

Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn!

Thuyết minh về cây lúa – Bài làm số 5

Việt Nam đất nước ta ơi!
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.
(Lê Anh Xuân)

Đất nước Việt Nam trải dài từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng có những cánh đồng lúa mênh mông, xanh tốt. Từ đồng bằng Bắc Bộ đến đồng bằng duyên hải miền Trung rồi đến đồng bằng sông Cửu Long, lúa là loại cây trồng chủ yếu. Lúa gắn bó với người nông dân Việt Nam.
Việt Nam được xem là “cái nôi của nền văn minh lúa nước”.  

Lúa là loại cây trồng thân cỏ, thân ngắn và phát triển thành bụi, rễ chùm, bám cạn, là cây lương thực chính trong sản xuất nông nghiệp.
Lúa được ươm mầm từ những hạt thóc căng mẩy. Hạt thóc giống ngâm nước ấm, ủ lên mầm rồi gieo xuống đất bùn. Chỉ độ 3 – 4 ngày thì những mầm non vươn lên rồi trở thành những cây mạ xanh tươi. Lúa phát triển rất nhanh, từ một thân lúa, lúa đâm nhiều thân mới rồi tựa vào nhau sinh sồi nảy nở trở thành từng bụi, từng khóm lúa. Khi lúa đang thì con gái, lá lúa vươn dài, hơi cong, xanh mướt một màu. Thân lúa lúc này cần nhiều chất dinh dưỡng để ngậm đòng, kết hạt. Khi trồng lúa ta cần chú ý đến giai đoạn sinh trưởng này. Trong chăm sóc lúa, nhà nông chúng ta luôn tâm niệm:

Nhất nước Nhì phân Tam cần Tứ giống.

Đó là 4 yếu tố chính để làm nên mùa vụ. Từ những ngày đầu gieo trồng cho đến lúc lúa trưởng thành ta phải lưu ý cung cấp đủ nước cho lúa nhưng cũng không để ngập úng làm lúa chết. Bởi thế mà hệ thống thủy lợi ra đời nhằm đáp ứng việc tưới tiêu cho lúa. Song song với việc cung cấp đủ nước là việc bón phân. Giai đoạn làm đất để chuẩn bị gieo  cấy ta nên bón phân trâu, bò hoặc phân xanh ủ mục. Giai đoạn mạ non cần bón phân u-rê để lúa nhanh có sức vươn lên. Đến giai đoạn làm đòng thì lúa cần nhiều dinh dưỡng nền ta chú ý cung cấp đủ lượng và chất. Có thể kết hợp phân u-rê và NPK hoặc một số loại phân hóa học kết hợp với từng giống lúa. Trong giai đoạn này lúa cần sự chăm sóc nhất là nhổ cỏ – bón phân – diệt trừ sâu bệnh. Có như thế lúa mới có sức ngậm đòng, kết hạt, đem lại kết quả ở mùa vụ. Khi lúa ngậm đòng cần chú ý trừ sâu bệnh và bơm thuốc dưỡng cây để bông lúa mẩy hạt nhiều hơn, cho năng suất cao hơn. Giai đoạn lúa chín chỉ cần cung cấp vừa đủ nước, không phải bón phân và phun thuốc cho lúa nữa.

Nếu được gieo trồng và chăm sóc thật kĩ thì lúa sẽ không phụ công người. Mùa vàng về, cánh đồng lúa trải dài như tấm thảm khổng lồ. Đồng quê. bát ngát dậy một mùi hương lúa mới, hương lúa thấm sâu tròng từng nếp khăn, từng vạt áo của người nông dân. Còn gì đẹp hơn cánh đồng lúa trong mùa gặt hái:

Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.
Tiếng hát mùa gặt – Nguyễn Duy

Cứ thế, một năm có hai vụ mùa chính. Vụ chiêm xuân từ tháng giêng đến tháng 4, tháng 5. Vụ mùa từ tháng 6 đến tháng 9, tháng 10. Có nơi lại làm thêm một vụ phụ đối với giống lúa ngắn ngày. Cây lúa nuôi sống con người, đem đến cho đất nước một nguồn thu lớn. Trong sản xuất nông nghiệp, lúa có tầm quan trọng đặc biệt. Lúa đưa nền kinh tế gia đình và nền kinh tế quốc dân ngày một đi lên. Lúa giúp con người có cơm no áo ấm.

Ngày nay, đất nước ta đang hội nhập và phát triển, Việt Nam là thành viên của WTO nên hoạt động buôn bán với nước ngoài ngày càng được mở rộng. Chúng ta nhập khẩu các thiết bị máy móc, xe cộ, linh kiện điện tử,… và xuất khẩu lúa gạo, hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm,… Bởi vậy cây lúa Việt Nam chiếm vị thế rất quan trọng đối với con người và đất nước. Đó là chưa kể đến rơm rạ sau khi thu hoạch còn là nguồn thức ăn chính cho trâu bò. Rơm khô còn là chất đốt, ủ phân bón ruộng, dùng để làm nấm. vỏ thóc dùng để ủ ấp trứng.

Cây lúa sẽ còn gắn bó mãi với người nông dân Việt Nam, với đất nước Việt Nam. Lúa làm cho đất nước thêm trù phú, cuộc sống của người nông dấn ngày càng no ấm. Lúa góp phần tôn vinh dân tộc Việt Nam.

Hồng Loan tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

  • thuyet minh ve cay lua lop 8
  • thuyết minh cây lúa quê em
  • hay thuyết minh ve cay lua việt nam van lop 8
  • thuyết minh về cây lúa việt nam lớp 8
  • Ngữ văn 8 thuyết minh về cây lúa nước

Bài viết liên quan

  • Chứng minh câu tục ngữ “Một cây làm chẳng nên non …” – Văn hay lớp 8
  • Thuyết minh về hoa sen – Văn hay lớp 8
  • Ý nghĩa câu ca dao “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây …” – Văn hay lớp 8
  • Phát biểu cảm nghĩ về bài Ca dao, dân ca: Những câu hát về tình cảm gia đình – Văn hay lớp 7
  • Thuyết minh về lễ hội làng – Văn hay lớp 9
  • Phát biểu cảm nghĩ về truyện Lợn cưới, áo mới – Văn hay lớp 6
  • Phát biểu cảm nghĩ về bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – Văn hay lớp 7
  • Phân tích tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Văn hay lớp 9
0