06/06/2017, 19:43

Soạn bài tổng kết phần tiếng Việt lớp 6 HK 2

SOẠN BÀI TỔNG KẾT PHẦN TIẾNG VIỆT Bài tập 1. Dựa vào những kiến thức về từ, hãy dùng dấu gạch chéo (/) đề vạch ranh giới giữa các từ trong đoạn trích sau (theo mẫu): M: Bình minh / của / hoa phượng / là / một / màu / đỏ / còn / non /, nếu / có / mưa / lại / càng / mát dịu /. Ngày / xuân / dần / hết ...

SOẠN BÀI TỔNG KẾT PHẦN TIẾNG VIỆT Bài tập 1. Dựa vào những kiến thức về từ, hãy dùng dấu gạch chéo (/) đề vạch ranh giới giữa các từ trong đoạn trích sau (theo mẫu): M: Bình minh / của / hoa phượng / là / một / màu / đỏ / còn / non /, nếu / có / mưa / lại / càng / mát dịu /. Ngày / xuân / dần / hết /, số / hoa / tăng /, màu / cũng / đậm / dần /. Rồi / hòa nhịp / với / mặt trời / chói lọi /, màu / phượng / mạnh mẽ / kêu / vang /: hè / đến / rồi /! Khắp / thành phố / bỗng / rực ...

SOẠN BÀI TỔNG KẾT PHẦN TIẾNG VIỆT

 

Bài tập 1. Dựa vào những kiến thức về từ, hãy dùng dấu gạch chéo (/) đề vạch ranh giới giữa các từ trong đoạn trích sau (theo mẫu):

M: Bình minh / của / hoa phượng / là / một / màu / đỏ / còn / non /, nếu / có / mưa / lại / càng / mát dịu /. Ngày / xuân / dần / hết /, số / hoa / tăng /, màu / cũng / đậm / dần /. Rồi / hòa nhịp / với / mặt trời / chói lọi /, màu / phượng / mạnh mẽ / kêu / vang /: hè / đến / rồi /! Khắp / thành phố / bỗng / rực lên /, như / tết / đến /, nhà nhà / đều / dán / câu đối / đỏ. Sáng mai / thức dậy /, cậu / học trò / vào / hẳn / trong / màu / hoa phượng/.

(Xuân Diệu, Trích Hoa học trò)

Đoan trích:

1) Hoa mai cũng có năm cánh như hoa đào, nhưng cánh hoa mai to hơn một chút. Những nụ mai không phô hồng mà ngời xanh màu ngọc bích. Sắp nở, nụ mai mới phô vàng. Khi nở, cánh mai xòe ra, mịn màng như lụa. Những cánh hoa ánh lên một sắc vàng muất, mượt mà. Một mùi thơm lựng như nếp hương phảng phâ't bay ra. Hoa mai trổ từng chùm thưa thớt, không đơm đặc như hoa đào. Nhưng cành mai uyển chuyển hơn cành đào. Vì thế, khi cành mai rung rinh cười với gió xuân, ta liên tưởng đến một đàn bướm vàng rập rờn bay lượn.

(Theo Mùa xuân và phong tục Việt Nam)

2) Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân (1) một cách quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bế sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm, và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh...

(Nguyền Tuân, Cô Tô, Ngữ văn 6, tập 2, tr. 89)

Bài tập 2- Nhận diện bằng cách gạch chân các từ ghép trong những đoạn trích sau đây (theo mẫu):

M: Ánh vàng nhạt cứ bớt mãi, có ai kéo về trời đế thắp các vì sao. Tầu lá cau trối nhất gượng bám chút bụi măt trời.... Trí tôi thấy - tuy mắt tôi không- những lớp bóng càng ở trên càng nhạt một ít, và cái đêm tối cứ lên hoài cho đến khi ngập cả trời cao.

Hoàng hôn. Ểnh ương kêu. Tiếng khan khản phát từ muôn gốc cỏ, từ những ruộng sâu thủm xuống làm cho con đường tư nhiên mà cao. Tiếng áo não, hơi phồng, như trong ấy có sự gắng sức, tiếng rậm và nhiều, và thẻ lương như sự chết làm sôi bóng hoàng hôn.

(Xuân Diệu - Phấn thông vàng, Dẫn theo Nguyễn Tăng Chương, Giảng văn 6, Trí Đãng, Sài Gòn, 1974, tr. 53).

Đoan trích:

1) Tôi đang mơ màng tưởng tượng thì chợt vang lên tiếng chim hoàng oanh hót. Tôi đưa mắt tìm xem chim đậu ở đâu mà hót. Mồi lần nghe chim hoàng oanh hót là tôi phải nghĩ đến những cây bàng cành lá xanh mướt, vòm trời xanh có mây trắng nhẹ như bông. Đà Lạt có chim hoàng oanh hót là điều tôi không bao giờ ngờ. Nhưng kìa, trên một cành thông gãy, có một con chim hoàng oanh nhỏ đang mổ vỏ thông tìm mồi. Mổ nhanh nhanh một hồi rồi lại nhảy sang cành khác, hót véo von. Mình chim thon thon, lông mướt, màu vàng nghệ, thật hoà hợp với giọng hót ấm áp. 

Óc tôi vụt nhiên thấy êm ả vô cùng...

(Võ Hồng, Hoài cô nhân. Dẫn lại theo Hoàng Đăng Cấp-Lê Hữu

Hiền - Bằng Giang - Xuân Tước - Thẩm Thệ Hà - Trọng Khanh, Quốc văn 8, Sống Mới, Sài Gòn, 1974, tr.31)

2) Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân (1) một cách quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bế sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thâm thẳm, và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lề phẩm tiến ra từ trong bình minh đé mừng cho sự trường thọ của tất cả những ngươi chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh...

(Nguyền Tuân, Cô Tô, Dẫn lại Ngừ văn 6, tập 2, NXB. Giáo dục, Hà Nội, tr. 88- 89).

Chú thích: Đảo Thanh Luân: Một trong 17 đảo trên quần đảo Cô Tô.

Bài tập 3. Nhận diện bằng cách gạch chân các từ láy trong những đoạn trích sau đây theo mẫu:

M: “...Chị Doãn là một người đàn bà có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp giai. Hai con mắt nhỏ, gò má cao, cặp môi phàm phũ, dáng người thô tục, những ngón tay tròn và dài như những quả chuối ngự.

Như vậy mà lại đi ăn mặc tân thời ! Răng trắng nừa, trời ạ! Cái áo dài lươt thươt màu xanh, cái quần nhiễu trắng trai lơ, đôi giầy cao gót có quai kiểu gái nhẩy, với mẫu khăn vành rây, ngần ấy thứ lại càng làm lộ cái mĩ miều của sự thô tục, lại càng làm tăng cái choáng lộn của sự kêch cỡm.

Đã thế, trong khi chuvện trò, thỉnh thoáng lại chêm vào một vài câu tiếng Tây, ra ý khoe khoang mình vốn là nữ học sinh. Tôi có cảm tương man mác ràng, người đàn bà này, những lúc vắng nhà, hắn đã huýt còi như một ông lính Tây say rượu”...

(Trích Vũ Trọng Phụng, Lấy vợ xấu)

Đoan trích:

1) “Anh Hoàng đi ra. Anh vần bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người anh khí to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá. Cái dáng điệu nặng nề ấy, hồi còn ở Hà Nội anh mặc quần áo tây cả bộ, trông chỉ thấy là chững chạc và hơi bệ vệ. Bây giờ nó lộ ra khá rõ ràng, trong bộ áo ngu màu xanh nhạt, phủ một cái áo len trắng nó nịt người anh đến nỗi không còn thở được.

Anh đứng lại bên trong cổng, một bàn tay múp míp hơi chìa về phía tôi, đầu hơi ngứa về đằng sau, miệng hé mở, bộ điệu một người ngạc nhiên hay mừng rỡ quá. Tôi có thì giờ nhận rõ một sự thay đổi trên bộ mặt đầy đặn của anh: trên mép, một cái vành móng ngựa ria, như một cái bàn chải nhó.

Sừng người ra một lúc rồi anh mới lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ họng:

- Ồi giời ơi ! Anh ! Quý hoá quá !...”

(Nam Cao, Trích Đôi mắt)

2) Em Tuyết của tôi vừa được 5 tháng. Nó mập tròn, trắng như hòn bột, khác hắn với các trẻ khác trong làng. Hai mắt đen nhánh và trong vắt. Thấy gì nó cũng nhìn. Nó cười nhiều hơn là khóc. Ai bồng bế nó cũng được.

Mẹ tôi ẵm nó ở trước ngực, để tay chân nó được tự do. Hai tay nó cào không khí một cách vụng về; hai chân nó đạp lung tung.

Khi người này bồng nó chuyển sang người khác, khi các cô bạn mẹ tôi hôn hít nó, một hồi nó thấy chán và đói bụng, nó oà lên khóc. Tức thì mẹ tôi nàng niu nó, cho nó bú và dỗ nó ngủ.

(Dần lại Từ Phát - Việt luận, Lớp nhì, lớp nhất, lớp liên, Thanh Quang, Sài Gòn, 1970, tr.79)

Bài tập 4- Gạch dưới các từ vay mượn có trong bài thơ dưới đây và cho biết tác dụng của các từ ngữ vay mượn ấy:

Thăng Long thành hoài cổ

                               Bà huyện Thanh Quan

Tạo hóa gảy chi cuộc hí trường (1)

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương (2)

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo (3)

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương (4)

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt (5)

Nước còn cau mặt với tang thương (6)

Ngàn năm gương củ soi kim cố (7)

Cảnh dấy người đây luống đoạn trường (8) 

(1) Tạo hóa: ông trời; hí trường: nơi đùa vui; (2) Tinh sương: đêm và ngày; (3) Thu thảo: cỏ mùa thu; (4) Tịch dương: nắng chiều tà; (5) Tuế nguyệt: năm tháng; (6) Tang thương: từ câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biến xanh biến thành nương dâu), ý nói sự đổi thay lớn; (7) Kim cổ: xưa nay; (8) Đoạn trường: đau lòng (đứt ruột).

Bài tập 5. Tra từ điển tiếng Việt đế giải thích nghĩa của các từ sau: đầu, lưng, tay, chân. Qua một số ví dụ, em hãy chứng minh rằng các từ này có thế chuyển nghĩa trong những câu nói cụ thế?

Bài tập 6. Dùng cách định nghĩa đế giải nghĩa các từ sau: biển, hồ, đầm; núi, đồi, khe, suôi, sông, ngòi, lạch, luồng.

Bài tập 7. Tra từ điền để giải nghĩa các từ: tấm, mảnh. Cho biết mổi từ có bao nhiêu nghĩa? Tìm nghĩa gốc của từ các từ đó.

Bài tập 8- Gạch dưới các cụm danh từ trong đoạn trích sau đây, theo mẫu.

M: ... “Vân ngồi lặng lẽ để sự bình tĩnh thấm vào người.

...Trước mặt chàng, khói hương nghi ngút trên bàn thờ lông lẫy. Những chữ vàng cua hai vế đối hai bên nổi bật lên trên nền sơn đen. Qua chiếc màn the hồng, Vân đưa mắt nhìn chiếc đĩnh đồng ám khói, chiếc ngai màu đò ối. mấy cây đèn nến cổ và hai lo sứ cắm hai cành đào, hoa đỏ thám như môi người.

(Dẫn theo Nguyền Tăng Chương - Giảng văn 6, Trí Đăng, Sài Gòn, 1974. tr.68).

Đoan trích: “Mẹ con bác Lê ở một căn nhà cuối phố, một căn nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác, có một chiếc giường nan đã gãy nát; Mùa hè thì rải ố rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó. Từ buối sớm tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta phải trở dậy đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn, tuy bác phải làm vất vả nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng kia đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ, bác Lê lo sợ vì không ai mướn làm việc gì nữa. Thế là cả nhà chịu đói. Mấy đứa nhỏ nhất khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét. Bác Lê ôm lấy con trong ố rơm đế mong lấy cái hơi ấm của mình ấp ủ cho nó.

(Thạch Lam, trích Nhà mẹ Lê)

Bài tập 9- Gạch dưới các cụm động từ trong đoạn trích sau đây, theo mẫu.

M: “Hải đã xa Hà Nôi, ra Cẩm Phá nhân công tác. Mỗi khi có dịp về quê Hà Nội rồi tạm biệt nó. bao giờ Hải cũng ngồi lăng hàng giờ để nghe ban anh là môt nhac sĩ trình bày bản “Ảnh trăng” của Bít- tô- vơn bằng đàn pi-a-nô. Anh cảm thấy dễ chiu và đầu óc bớt căng thẳng...”

(Tô Ngọc Hiến - Dần theo Tiếng Việt 4, tập 1, NXB. Giáo dục, 1999, tr.42).

Đoan trích: “Sóng vẫn vỗ ầm ầm vào bờ. Những đợt sóng trước kia xanh đẹp là thế, nay ngầu đục, dồn dập, xô đẩy nhau, cưỡi lên nhau... Trên mười nàm qua rồi, đời sống của miền Ngư Thuỷ này đổi thay đã nhiều, thế mà biển vẫn y như trước, vẫn hung bạo không kém.

Ông bõ nheo nheo mắt nhìn những đợt sóng dồn dập ở ngoài kia, nhớ đến cái lúc thuyền bõ bị đắm thì trên thuyền cũng có năm người. Bõ còn nhớ rõ như in trong trí là lúc thuyền bị sóng nhận xuông thì ba người đã phóng xuống biển đế nâng bợ thuyền lên. Còn lại hai người, là bõ với một anh bạn

(Anh Đức, Biển xa. Dần lại Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Nguyền Quang Sáng, Bùi Hiển, Văn miêu tả và kể chuyện, tr. 160).

Bài tập 10. Gạch dưới các cụm tính từ trong đoạn trích sau đây, theo mẫu.

M: “Nó chỉ là chiếc quạt như bao nhiêu chiếc quạt khác của chị em trong ban vũ thôi. Nhưng ở trong tay nàng Há, mỗi lúc nàng múa lên, cái vật tầm thường này lại được thoát hình trong một sự biến hoá huyền ảo lạ thường. Nó không còn là chiếc quạt nữa. Nhưng là một cái gì khác lạ hẳn. Một cánh bướm nhẹ nương theo một cánh gió. Một bài thơ trác tuyệt. Một mảnh vàng chới với trong không trung đế' lôi cuốn tám hổn người ta vào mỏt thế giới mung lung, mông áo của núi rừng có trăng thanh và suôi bạc.”

Đoan trích:

“Khuyên chú ý chiếc quạt ấy ngay từ buổi trình diễn đầu tiên... Nhưng cái ấn tượng sâu đậm nhất mà vũ khúc ghi vào tâm não anh là một chiếc quạt với bàn tay trắng mềm. Bao giờ cũng vậy, suôi; cả vũ khúc, mắt Khuyến theo dõi mãi không ngừng chiếc quạt và bàn tay ấy. Và rồi hình ảnh bàn tay với chiếc quạt nhẹ phẩy trong không trung, cùng một đàn bướm rừng vô hình bị lùa bay tán loạn theo gió, lại vụt hiện về với Khuyến mỗi lúc anh nghĩ đến nàng Há”.

(Theo Minh Văn - Xuân Tước, Việt luận, Lớp 5, tiếp liên, 6,7,8, Sống Mới, Sài Gòn, 1970, tr. 54-55)

Bài tập 11. So sánh hai câu sau đây và cho biết câu nào có nhiều vị ngữ?

Bác Vuông cảm thấy nhẹ nhàng, khoẻ khoắn, vui vui (1). Bác đi ra vách, với cây đàn bầu, so dây, gẩy (2).

Bài tập 12. Đọc và cho biết những câu nào dưới đây có hai chủ ngữ?

“...Chính mắt bõ trông thây một đàn cá mập lượn tới, con đầu to bằng cánh phản, bơi nghiêng và những con sau bõ mới chỉ kịp nhìn thoáng thấy, chưa kịp kêu, thì chúng đã đớp ngay một anh (1). Hai anh kia cũng bị chúng đuối theo, ăn nốt (2). Máu loang đỏ trào lên ngọn sóng (3). Bõ với anh Tấn nấp sát vào lòng khoang thuyền (4). Đàn cá biết còn người trên thuyền nên chúng cứ lượn quanh (5). Nhưng chúng không có cách nào ăn thịt hai người (6). Hai người cứ rúc trong lườn thuyền (7). Chiều hết đến đêm (8). Thực là một đêm khủng khiếp trong đời bõ (9)”.

(Anh Đức, Biển xa, Dẫn lại Vũ Tú Nam, Phạm Hổ... - Văn miêu tả và kể chuyện, tr. 160).

Bài tập 3. Viết một đoạn văn trong đó có sử dụng câu trần thuật đơn có từ “là” và không có từ “là”. Chú ý dùng đúng các dấu chấm, phẩy, chấm than...

Bài tập 13. Tìm các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích dưới đây và cho biết tác dụng của chúng :

“Ngồi xem anh Thận làm việc thật thích: có cái gì rất khỏe, rất say trong công việc của anh, sinh động và hấp dẫn lạ thường. Này đây, anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sông. Dưới những nhát búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vầy, quăn quại, giãy lên đành đạch. Những chiếc vảy của nó bắn ra tung tóe thành những tia lửa sáng rực. Nó nghiên răng ken két, nó cưỡng lại anh, nó không chịu khuất phục. Anh quặp lấy nó trong đôi kìm sắt dài, lại dúi đầu nó vào giữa đống than hồng.

... Cuối cùng con cá lửa đành chịu thua. Nó nằm ưỡn dài ngửa bụng ra trên đe mà chịu những nhát búa như trời giáng. Và tới lúc anh trở tay ném nó đánh xèo một tiếng vào cái chậu nước đục ngầu làm cho chậu nước bùng sôi lên sùng sục thì con cá sắt kia liền chìm nghỉm xuông đáy chậu: nó đã biến thành một chiếc lưỡi rựa vạm vỡ và duyên dáng. Anh Thận chỉ liếc nhìn nó .một cái, như một kẻ chiến thắng. Và anh lại bắt đầu một cuộc chinh phục mới”.

(Nguyên Ngọc- Đất Quảng, tập 2. Dần lại Vũ Tú Nam, Phạm Hổ... Sđd, tr. 154-155).

 
0