16/01/2018, 13:03

Phát biểu cảm nghĩ về “Những câu hát than thân” – Văn mẫu lớp 7

Phát biểu cảm nghĩ về “Những câu hát than thân” – Văn mẫu lớp 7 Phát biểu cảm nghĩ về "Những câu hát than thân" – Bài số 1 Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất ...

Phát biểu cảm nghĩ về “Những câu hát than thân” – Văn mẫu lớp 7

Phát biểu cảm nghĩ về "Những câu hát than thân" – Bài số 1

Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.

Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

1.    Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?

2.    Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

3.    Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.

Câu 1 : Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:

Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;

Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn cho gầy cò con ?

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?!

Cao hơn ý nghĩa một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.

Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:

Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kều ra máu có người nào nghe.

Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.  

Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khó. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí nào soi tỏ.

Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.

Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi thương tâm gây xúc động thấm thía.

Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để cho con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy Ị người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng có. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.

Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?

Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.

Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, thương phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.

Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sông nước miền Nam.

Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.

Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo khổ xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ châm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thông trị kéo dài bao thế kỉ.

Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng thương hom ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rơm rạ của một quá khứ chưa xa.

Phát biểu cảm nghĩ về "Những câu hát than thân" – Bài số 2

Ca dao chính là phương tiện để con người bộc lộ những suy tư, tình cảm sâu kín nhất trong tâm hồn. Đó không chỉ là tình cảm lãng mạn của tình yêu đôi lứa, sự sâu sắc, nhân văn trong ca dao về tình cảm gia đình mà còn là những nỗi niềm chua xót, đắng cay của con người. Nỗi niềm ấy, sự xót xa ấy được thể hiện sâu sắc qua chum những bài ca dao viết về đề tài than thân, yêu thương chung thủy của người bình dân trong xã hội xưa.

Ca dao than thân là một hình thức ca dao khá phổ biến, đó là những lời ca than thân trách phận của những con người trong xã hội xưa, mà nhiều hơn cả là những người phụ nữ, bởi họ phải chịu những bất công, đau khổ mà xã hội phong kiến xưa mang lại. Sự rẻ rúng của thân phận những người phụ nữ trở thành một đề tài quen thuộc trong ca dao, họ bị xã hội vùi dập, tước đoạt đi quyền được sống, quyền lựa chọn hạnh phúc cho mình:

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Trong xã hội phong kiến xưa có quan niệm, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, người phụ nữ đến tuổi lập gia đình không có quyền lựa chọn người mình yêu, đối tượng làm chồng của mình, mà mọi thứ đều được quyết định bởi cha mẹ. Đối với những người đề cao quan điểm môn đăng hộ đối thì số phận của những người phụ nữ càng trở nên bất định, hạnh phúc như một ván bài hên xui, nếu may mắn tìm được người chồng tốt thì sẽ được hưởng hạnh phúc, còn không may gặp phải người chồng xấu thì họ vẫn phải nhẫn nhục chịu đựng, không có quyền phản kháng.

Bởi vậy mà nhân vật trữ tình trong câu ca dao này đã ví mình như một tấm lụa đào, tức là một món hàng được bày bán ở giữa chợ, không biết người mua là ai, người quân tử hay kẻ tiểu nhân, một số phận đầy bi đát, đáng thương. Ở bài ca dao sau lại là lời tâm sự đầy tha thiết của một người phụ nữ về bản thân mình, đó là người phụ nữ không có nhan sắc nhưng lại là một người có vẻ đẹp tiềm ẩn ở bên trong. Lời ca như một lời thuyết minh, giới thiệu đầy xót xa của người phụ nữ ấy về con người của mình:

“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”

Xã hội xưa thường đề cao hình thức, những người con gái có diện mạo ưa nhìn, đoan trang thường được coi trọng và nhiều người để ý hơn, ngược lại những người phụ nữ không có lợi thế về nhan sắc thì bị rẻ rúng, coi thường. Nhân vật trữ tình đã tự ví mình như củ ấu gai, để nói về diện mạo xù xì, gai góc, không ưa nhìn. Nhưng bên trong củ ấu ấy lại là phần ruột trắng trong, câu ca dao nhấn mạnh đến vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, đó là vẻ đẹp khó nhận biết, nếu không chân thành thì khó có thể cảm nhận được, đó chính là những người con gái không có lợi thế về diện mạo nhưng lại là những con người thực sự đẹp về tâm hồn.

“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

Nếu như những câu ca dao trên viết về chủ đề than thân trách phận thì đến câu ca dao này lại gợi nhắc về thứ tình cảm vợ chồng khăng khít, gắn bó mà dẫu có xa nhau vẫn hướng về nhau, dù có biến cố cũng không cắt chia được tình cảm. Gừng và muối là hai biểu tượng cho tình cảm gắn bó keo sơn, ở trong câu ca dao này chúng được dùng biểu tượng cho sự khăng khít, bất biến trong tình cảm của vợ chồng, đó là thứ tình cảm sâu nặng, không dễ chia lìa, mà dẫu có ngày phải chia lìa thì đó cũng là một tương lai rất xa thực tại, khó có thể xảy ra.

Người Việt Nam xưa thường mượn những câu ca dao để dãi bày những tình cảm sâu kín, đó chính là những lời than khóc, những tâm sự nặng trĩu của những người phụ nữ trong xã hội xưa, họ khát khao hạnh phúc, khát khao tình yêu nhưng hạnh phúc ấy với họ là một thứ xa xỉ, vận mệnh của họ nằm trong tay của người khác, không có lấy một chút tự chủ nào.

Phát biểu cảm nghĩ về "Những câu hát than thân" – Bài số 3

Trong kho tàng – dân ca Việt Nam, cùng với những bài ca về tình cảm gia đình, những bài ca tình yêu quê hương đất nước, con người, những tiếng hát than thân, mảng ca dao châm biếm chiếm một số lượng đáng kể. Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Qua các hình thức ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược vù phóng đại, v.v. những câu hát châm biếm đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, ngược đời, phê phán những thói hư, tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười, đáng chê trách trong cuộc sống. Nói khác đi, ca dao châm biếm là vũ khí tinh thần sắc bén của nhân dân ta.

Trong số hàng trăm, hàng ngàn câu ca dao châm biếm, bốn bài trong văn bản Những câu hát châm biếm và ba bài đọc thêm mà học sinh lớp 7 được học có lẽ là tiêu biểu nhất.

Trước hết, chúng ta thử điểm mặt xem đối tượng nhân dân ta châm biếm, chê trách là hạng người nào, là hiện tượng gì ? Đó là "chú tôi" – một chàng trai làng – nào đó, là một ông thầy bói, là một "cậu cai" (trong bài học chính). Đó là một ông thầy cúng luôn tay gõ chập cheng, là "con mèo" – một loại quan chức, địa chủ trong làng. Đó còn là ông "quan tướng" (trong phần đọc thêm), về hiện tượng xã hội, ca dao châm biếm tập trung nói tới việc ma chay trong làng (bài 3, văn bản chính), hoặc cưới hỏi, lễ bái ở đình chùa… Tất cả những chân dung con người ấy điển hình cho loại người vô công rồi nghề, loại người chức sắc, quan lại từ nhỏ đến lớn, loại người chuyên nghề mê tín dị đoan,… Họ lười biếng, bê tha, gian dối, tàn ác, sách nhiễu nhân dân, gây ra biết bao hiện tượng tiêu cực trong xóm ngoài làng, gieo biết bao đau khổ cho nhân dân. Họ thật đáng cười, đáng chê trách và lên án.

Trước hết là cái anh chàng "chú tồi" mà tác giả bài ca muốn giới thiệu với "cô yếm đào" xinh đẹp, trẻ trung. "Chú" lười biếng và lắm thói hư, tật xấu. "Chú" nghiện rượu (hay tửu, hay tăm), nghiện chè (hay nước chè đặc), thường ngủ muộn, thích nằm dài mong nhiều "ngày mưa", ước đêm kéo dài (thừa trống canh) để không phải ra đồng cày ruộng. Tác giả bài ca đã sử dụng điệp từ ("hay" nhắc lại bốn lần, "ngày" hai lần, "ước" hai lần, "đêm" hai lần) gợi cảm giác kéo dài, quanh quẩn, rất bức bối, khó chịu. Đồng thời, lối chơi chữ, nói ngược (hay tửu, hay tăm, hay nước chè đặc,…) bên ngoài có vẻ như khen ông chú tài giỏi, nhưng thực ra là để giễu cợt, chê trách. Lời nhẹ nhàng, đùa vui hóm hỉnh nhưng ý nghĩa phê phán khá sâu cay.

Tiếp sau chân dung "chú tôi" là chân dung ông thầy bói và "cậu cai". Ở bài thứ hai, tác giả nhại lời thầy bói, ghi âm nguyên văn những lời phán của thầy trước một cô gái mê tín. Thầy đoán về những điều gì và phán thế nào ? Toàn là những điều quan trọng mà cô "đệ tử" ước ao điều tốt lành, điều mới mẻ. Nhưng thầy phán toàn là những lời vô nghĩa, những điều vốn nó như thế, hiển nhiên chẳng cần bói toán, suy đoán gì cả. "Số cô chẳng giàu thì nghèo – Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà…", đấy là thầy đoán về "tài lộc" của cô gái. Còn về "gia cảnh", về "nhân duyên" thì… "cô có mẹ, mẹ là đàn bà, có cha, cha là đàn ông, cô sẽ có chồng, có chồng sẽ có con, con gái hoặc con trai"… Rõ ràng cái nhà ông thầy bói này chỉ ba hoa, mồm mép, nói những điều ai cũng biết. Tục ngữ ta có câu "thầy bói nói mò". Ông thầy bói này không chí "nói mò" mà nói lăng nhăng, vô vị, thật đáng cười. Đáng cười hơn nữa là giọng nói của thầy. Tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật "nói nước đôi", nói phóng đại, càng nói càng vô vị, vô nghĩa. Rõ ràng, bài ca dao đã phê phán những ke hành nghề mê tín dị doan, lừa bịp lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, bài ca cũng giễu cợt, phê phán những người ít hiểu biết, thiếu niềm tin cuộc sống, tìm đến sự bói toán, lễ bái vu vơ, phản khoa học, nhiều khi thêm lo nghĩ không cần thiết "Bói ra ma, quét nhà ra rác". Cha ông ta từng nhắc nhở như thế. Phê phán ông thầy bói, bài ca dao đồng thời cảnh tỉnh chúng ta. Còn "cậu cai" – trong bài thứ tư – thì có gì đáng phê phán và cách phê phán thế nào ? Chân dung "cậu cai" được vẽ bằng hai nét đối chọi nhau. Hằng ngày cậu ăn mặc khá sang trọng, nào "nón dấu lông gà", nào "ngón tay đeo nhẫn". Nhưng khi có công việc, cần sự sang trọng, cần uy quyển thì "Áo ngắn đi mượn, quần dài di thuê", nghĩa là cậu chẳng có của cải, tài năng đích thực gì. Đó là một thân phận rởm, uy quyền rởm mà thôi ! Tác giả dân gian đã dùng nghệ thuật đối lập (bên ngoài oai vệ bên trong tầm thường) kết hợp với cường điệu (ba năm một chuyến sai, áo mượn, quần thuê) để hạ bệ "cậu cai", cũng có nghĩa là châm biếm, phê phán tầng lớp thống trị xưa. Chúng lố lăng, bắng nhắng, nhưng bản chất thì rất tầm thường, quyền hành thảm hại đến nực cười…

Cũng với chân dung con người cụ thể, ca dao châm biếm còn vẽ lại khá nhiều bức tranh xã hội dáng chê trách. Đó là cảnh một đám tang ở nông thôn trong bài ca dao thứ ba. Điều thú vị là tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng. Các nhân vật trong đám tang đều là những con vật. Tang chủ là gia đình cò – một loại nhà nghèo, thân phận bé mọn. Có người thân chết, "cò con" lo "làm ma", vừa đau thương vừa bối rối. Vậy mà những bạn bè, người thân xa gần kéo đến thì ồn ào, nhốn nháo, không phải để chia buồn, giúp đỡ việc tang. Trái lại, "cà cuống" thì uống rượu. Chim ri thì "lấy phần". Chào mào "đánh trống". Chim chích "vác mõ đi rao", chắc là để báo tin cho cả làng biết, tiếp tục kéo đến… Mỗi con vật ẩn dụ một loại người trong làng xóm, đủ cả già trẻ, trai gái, bề trên, kẻ dưới,… Những từ đặc tả, từ láy, từ ghép "la đà", "ríu rít", "cởi trần",… chụp được những chân dung cử chỉ, hành động thật cụ thể, rất rõ nét. Cảnh tượng ấy hoàn toàn không hợp với việc tang. Một việc đáng buồn thương, nghiêm chính bỏng trớ nên một màn hài kịch, thành cuộc đánh chén, chia chác om sòm. Thật chua chát, đáng cười và … đáng khóc. Bài ca dao đã nghiêm khắc phê phán một hủ tục của làng quê ngày xưa…

Mỗi bài một giọng điệu, với những biện pháp nghệ thuật, bật ra những tiếng cười khác nhau, nhưng chùm ca dao châm biếm này đều giống nhau là: nghiêm khắc phê phán những con người xấu xa, những hiện tượng xã hội tiêu cực. Đó là vũ khí tinh thần sắc bén mà nhân dân ta đã sử dụng để mong muốn xoá bỏ những cái xấu, cái ác, mong muốn xây dựng một xã hội, những con người lành mạnh, lương thiện. Tuy đây là lời người xưa, nói về ngày xưa, nhưng đọc, rồi hiểu và suy ngẫm, chúng ta vẫn thấm thía những bài học thiết thực cho ngày nay…

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • https://xembaigiai com/phat-bieu-cam-nghi-ve-nhung-cau-hat-van-mau-lop-7-2744 html
  • cảm nhận về những câu hát than thân
  • cảm nghĩ về những câu hát than thân
  • phat bieu cam nghi cua em ve mot bai ca dao hay va ngan nhat
  • cảm nghĩ của em về bài ca dao than thân
  • cảm nghĩ của em về vẻ đẹ của người phụ nữ xưa qua những bài ca dao đã học
0