28/05/2017, 15:07

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Văn mẫu lớp 7

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 1 “Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng ...

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 1 “Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc ...

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 1

“Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hoàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều ta lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.

Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ :

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.

“Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đên người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 2

Trong số những nhà thơ nữ của thời kì trung đại, có thể nói Bà huyện Thanh Quan là một trong số những nhà thơ mang lại cho em những cảm nhận sâu sắc nhất. bà thường viết thể thơ Đường luật là một trong những dạng thơ cần nhiều quy tắc cả về câu chữ, thanh âm. Ấy thế mà, những bài thơ của bà luôn luôn không những tuân thủ một cách chặt chẽ mà còn mang những ý nghĩa sâu sắc, đem lại cho người đọc rất nhiều những suy nghĩ, gợi hình. Và trong số những tác phẩm của bà, em ấn tượng nhất với bài thơ “ qua đèo Ngang” được tác giả viết khi đi tới Phú Xuân và dừng chân tại đèo Ngang- bài thơ thất ngôn bát cú đường luật khi ấy đã được ra đời.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Mở đầu hai câu đề là hoàn cảnh của tác giả. Khi nữ thi sĩ bước tới nơi đây cũng đã là hoàng hôn, mọi thứ xuất hiện trước mắt bà là hình ảnh của tất cả cảnh vật như thấm đẫm trong đó sự trầm lắng, nhẹ nhàng. Bà nhìn xuống đất và phía trước mặt, ngay sát cạnh mình, đó toàn là hình ảnh của những nào cây, nào cỏ, nào hoa. Tất cả thiên nhiên của nơi đây đều là sự hoang sơ, tĩnh lặng và chưa có sự khai phá của con người. Thiên nhiên như hòa chung với xúc cảm của con người. tất cả hoa lá, cây cối nơi đây mọc lên rậm rạp, chen chúc lên nhau để kiếm tìm chút ánh sáng mặt trỏi.

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác trên song chợ mấy nhà

Tới  hai câu thực, lúc này, tầm mắt của tác giả đã phóng ra xa. Những hình ảnh hiện trong mắt của người nghệ sĩ lúc này chỉ còn lại là những chấm nhỏ. Đó là những hoạt động của con  người nơi đây. Thế nhưng, ở đây dân cư vẫn rất thưa thớt. Nghệ thuật đảo ngữ trong bài thơ lúc này lại càng làm cho sự đìu hiu, vắng lặng không gian của con người càng gia tăng. Tất cả những điều đó, như nhẹ nhàng mà đi sâu vào người đọc những hình ảnh của đèo Ngang lúc bấy giờ.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Điểm nhìn của tác giả đã thay đồi. Lúc này đây, nữ thi sĩ đã không cảm nhận thế giời quanh mình bằng đôi  mắt nữa mà bằng chính đôi tai, bằng những âm thanh xung quanh. Thế nhưng, những gì mà bà nghe thấy chỉ là những tiếng kêu “ quốc, quốc” của những con chim cuốc. Tiếng kêu của chúng như hằn sâu vào lòng người bởi chính sự sầu não, cô liêu. Trong hoàn cảnh hoàng hôn nơi hoang sơ, hung vĩ, tiếng kêu đau buồn, gợi lên nhiều kỉ niệm buồn ấy làm cho người đọc, người nghe có tâm trạng như chùng xuống, như khơi gợi lên về những điều suy nghĩ ở trong lòng. Và tác giả- người có mặt ngay tại nơi ấy cũng không còn là ngoại lệ.

Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Sự tĩnh lặng của thiên nhiên, sự hung vĩ, bạt ngàn của nơi đây đã làm cho người nghệ sĩ dâng lên trong lòng rất nhiều những suy nghĩ. Bà nhớ về quê nhà, nhớ đất kinh kì với tâm trạng khắc khoải. Nỗi lòng của bà như được nâng lên, được nổi bật giữa cái to lớn của toàn vũ trụ.

Tóm lại, bài thơ Qua đèo ngang là bài thơ tả cảnh mang rất nhiều những ý nghĩa trong nó mà  qua đó, chúng ta cũng thấy được tình yêu quê hương đất nước của tác giả qua tác phẩm của bà.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 3

Bước vào nền văn học Việt Nam, ta bắt gặp một nữ sĩ tài danh hiếm có, nữ sĩ ấy chính là Bà Huyện Thanh Quan ở thế kỉ XX. Bà đã dùng ngòi bút để giãi bày tâm sự, gửi gắm tình cảm của mình đối với thiên nhiên, đối với đất nước mà bà đã yêu tha thiết. Bài thơ Qua đèo Ngang là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của bà.

Mở đầu bài thơ là cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Tác giả dừng bước tới Đèo ngang cũng là lúc ánh ngày sắp sửa đi qua:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

"Bóng xế" đã thể hiện một khung cảnh vắng vẻ, trầm buồn, không ồn ào náo nhiệt. Đây là quãng thời gian thích hợp để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải. Còn thiên nhiên ở đây lại mang dáng vẻ hoang sơ, có còn chăng là những tia nắng yếu ớt cuối ngày. Không gian gợi nỗi buồn man mác, đặc biệt buồn hơn đối với người lữ khách tha phương như Bà Huyện Thanh Quan. Bà rất buồn vì phải rời xa quê hương để làm nhiệm vụ. Nhìn thấy cảnh vật ở Đèo Ngang, bà có dịp bộc lộ tâm trạng của mình, đó là cách tả cảnh ngụ tình mà Bà Huyện Thanh Quan cũng như các nhà thơ cổ điển đã sử dụng. Cảnh thiên nhiên càng trở nên lạnh lẽo bởi vẻ thưa thớt của con người:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Đây là sự vắng vẻ, đơn điệu cảu cuộc sống chốn Đèo Ngang. Đèo Ngang thật kì vĩ nhưng còn hoang sơ, tẻ nhạt. Bóng dáng nữ sĩ dường như bị mất hút vào không gian mênh mông, bất tận ấy. Hình ảnh con người chỉ thoáng bóng, đó là những người lao động khổ cực, bầu bạn với núi rừng, sông núi. Hình ảnh này đã làm cho tâm hồn nữ sĩ mang nỗi buồn thương man mác. Khung cảnh đã buồn, tâm trạng bà lại buồn hơn. Buồn vì đất nước đang lênh đênh trong những triều đại phong kiến. Bà đã mượn tiếng kêu chiều của chim rừng để bày tỏ nỗi lòng mình:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Sự đơn điệu trong câu thơ thật hay, thật ấn tượng. Có phải chăng "quốc" ở đây là nước còn "gia" là nhà? Tiếng cuốc kêu hay chính là lời non nước? Tiếng gia gia trong câu thơ có phải là lời nhắn gọi của quê hương, gia đình và người thân mà ngày đêm bà hằng mong nhớ. Là phụ nữ thì bà cũng không thể thoát khỏi "nữ nhi thường tình" ấy. Đến đây nỗi nhớ nước và nỗi thầm lặng cô đơn của Bà Huyện Thanh Quan hiện lên rất rõ. Nỗi buồn tâm sự mỗi lúc một dồn nén. Cảm nhận ban đầu là hình ảnh của không gian, cảnh vật rồi đến cuộc sống con người, âm thanh vang vọng trong cuộc sống. Tất cả đã làm cho tình cảm tác giả sâu lắng rồi chất chứa và cô đọng thành nỗi buồn vô tận, nỗi cô đơn không cùng ai chia sẻ:

Dừng chân đứng lại, trời, non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Tác gia đang đứng trước một không gian rộng lớn với chan chứa nỗi buồn. Đứng trên đỉnh cao của Đèo Ngang, tác giả nhìn thấy cảnh trời non nước, nhìn rõ cảnh tượng thoáng đãng mà heo hút, hoang sơ, thấy rõ cảnh đượm buồn của đất nước và tâm trạng u hoài của chính mình. Bà Huyện Thanh Quan và cảnh Đèo Ngang đang có một điểm tương đồng. Đó là dáng vẻ trầm buồn, day dứt. Nỗi buồn cô đơn chỉ một mình bà bày tỏ, Bà Huyện Thanh Quan đã mượn cảnh tả tình, tâm sự sẻ chia nỗi buồn cùng cảnh vật. Nhà thơ đã tự gặp lại mình trong nỗi buồn thương da diết khôn nguôi của mình bà trước cuộc sống đương thời.

Với bút pháp tả cảnh và biện pháp đảo ngữ mà tác giả đã sử dụng, bài thơ đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, đượm buồn trong buổi chiều tà ngả bóng, đồng thời thể hiện một nỗi buồn sâu lắng cô đơn của tác giả. Dù tác giả đi làm quan nhưng vẫn khắc khoải nhớ về quê hương. Tâm trạng bà ngổn ngang bao nỗi niềm với đất nước. Đó là cái cao quý ở Bà Huyện Thanh Quan.

Bà đã để lại cho đời những áng thơ đặc sắc. Bài thơ Qua Đèo Ngang mang đậm thời thế cuộc đời, nó đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 4

Qua đèo ngang  là một tác phẩm nổi tiếng cuả bà huyện thanh quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân  đi qua đèo ngang là một địa danh  phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề    
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà”

Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang ,khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang  buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hòng sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.

“Cỏ cây chen là đá cheo hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.

Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá,lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vìa chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom”khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác,chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc,chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Nghe tiếng chim rừng mà tác gỉa thấy nhớ nước,nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ on là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.

“Dừng chân ngắm lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ "dừng chân ngắm lại" thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang,tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình  "một mảnh tình riêng ta với ta". Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé  "một mảnh tình riêng" của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.

Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc .

Từ khóa từ Google

0