06/05/2018, 08:50

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Văn mẫu hay lớp 7

Xem nhanh nội dung Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Kiên Giang Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có 2 nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan. Nếu như thơ văn ...

Xem nhanh nội dung

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Kiên Giang

Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có 2 nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan. Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm.

… Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang” người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc, kín đáo của nhà thơ.

Nhà thơ mở đầu bài thơ bằng việc tả cảnh đèo nhìn từ trên cao. Khi bóng chiều đã xế, có đá núi, cây rừng, có bóng tiều phu di động, có những mái nhà ven sông… mà sao heo hút, đìu hiu đến nao lòng.

Bước tới đèo ngang bóng xế tà 
Cỏ cây chen đá lá chen hoa…
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Cảnh gợi lên trong tâm hồn tình cảm của con người giọt buồn, giọt nhớ… Trời đã xế chiều, bóng đã dần tàn… cảnh tượng ấy rất phù hợp với tâm trạng của bà Huyện Thanh Quan lúc này. Đó là nỗi u hoài, gợi buồn trước sự đổi thay của xã hội. Thế nên nhà thơ Nguyễn Du cũng đã nói:

“Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu 
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”

Cảnh vật ở đây cũng thật sinh động đấy : Có cả cỏ với cây điểm thêm lá và hoa nhưng tất cả lại được hiển hiện trong hoạt động “chen chúc”. Đứng trước cảnh tượng đó khiến cho con người càng gợi lên sự hoang mang, khiếp hãi. Cảnh vật thì bao la làm cho tâm hồn con người đã hiu quạnh, đơn chiếc tăng thêm sự cô đơn, vắng lặng gần như hoàn toàn trống trãi. Nhà thơ quan sát tổng thể cảnh nơi đây. Con người xuất hiện. Nhưng con người càng tô đậm thêm sự buồn vắng. Chính cảnh tượng ấy càng tạo cho nhà thơ những cảm giác hiu quạnh, tẻ nhạt, trống trải.

Tức cảnh sinh tình:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước 
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của lòng người với nhà, với nước, với thân phận cô đơn của mình lại được cộng hưởng bởi những âm vang trong tiếng kêu khắc khoải không dứt của chim cuốc giữa đỉnh cao chon von, nhìn lên chỉ thấy trời cao, nhìn xa chỉ thấy mây nước vời vợi… 

Nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh Đèo Ngang . Nhưng đó không phải là tiếng kêu của loài chim cuốc, chim đa đa . Mà nói cho đúng đó chính là tiếng lòng của nhà thơ . Nhà thơ mượn hình ảnh loài chim cuốc muốn gợi sự tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kì vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa. Gia tộc của nhà thơ vốn trung thành với nhà Lê nhưng không thể nào theo một chế độ đã thối nát. Vả lại đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà nên “cái gia gia” gợi nỗi thủy chung, thương nhớ quê nhà. Cảnh vật vắng lặng, đơn chiếc, xót xa , buồn bã . Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng .

Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cả thân xác lẫn tâm linh của nhà thơ hoàn toàn tĩnh lặng . Nhà thơ cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la . Trong khi đó, con người chỉ là “một mảnh tình riêng”. Con người mang tâm trạng cô đơn, trống vắng hoàn toàn. Thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ .

“Qua Đèo Ngang” là một bài thơ trữ tình đặc sắc . Với cách sữ dụng ngôn từ trang nhã nhưng rất điêu luyện đã giúp người đọc thấy được bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu kín . Cảnh Đèo Ngang thật buồn vắng phù hợp với tâm trạng con người cô đơn hoài cảm . Từ bài thơ, cảm thụ tâm cảm của nhà thơ , ta càng cảm thông nỗi lòng của tác giả và kính phục tài năng thi ca của bà Huyện Thanh Quan.

Qua Đèo Ngang là một tuyệt tác của Bà Huyện Thanh Quan, em hãy viết một bài văn cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang? – Bài làm 2

“Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hoàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều ta lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.

Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.

“Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đên người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.

Cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 3

Cùng với các nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm…, Bà Huyện Thanh Quan đã góp phần làm vinh dự cho nền văn học trung đại Việt Nam chúng ta. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, nhưng là một tài danh hiếm có.

Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng và rất quen thuộc với bạn đọc:                                    

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,                                     

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.                                     

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,                                     

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.                                     

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,                                     

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.                                     

Dừng chân dứng lại, trời, non, nước,                                     

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thuộc thể Đường luật thất ngôn bát cú (mỗi câu bảy tiếng, mỗi bài tám câu) với thanh điệu, vần điệu, bố cục, dối xứng rất hài hoà, tự nhiên, đúng niêm luật, đọc lên nghe xuôi tai, rất dễ thuộc, dễ nhớ. Lướt qua một lần từ câu chữ mở đầu đến kết thúc, chúng ta nhận ra bài thơ đẹp như một bức tranh vẽ lại một vùng non nước miền Trung đất Việt hùng vĩ, mà hoang sơ, gợi cảm.

Câu mở đầu cho ta biết cảnh Đèo Ngang hiện lên vào lúc xế tà, nắng nhạt. Cảnh vật gồm : cỏ, cây, hoa, lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, vài chú tiều. Đường nét, màu sắc, chi tiết thưa thoáng, nhẹ nhàng, thanh đạm. Nét vẽ của nhà thơ chấm phá từ gần đến xa. Hoà với đường nét, văng vẳng vọng lại mấy âm thanh, tiếng kêu "nhớ nước" của chim cuốc, tiếng than "nhớ nhà" (muốn tìm về tổ) của chim đa đa. Trong nghệ thuật kết cấu thơ, tác giả thật khéo dùng câu đối xứng "Lom khom dưới núi tiều vài chú" đối xứng với "Lác đác bên sông chợ mấy nhà", đường nét đối xứng với đường nét, hình ảnh cuộc sống con người đối xứng với nhau. "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc" đối xứng với "Thương nhà mỏi miệng cái gia gia", âm thanh, loài vật đối xứng với nhau, hài hoà, cân đối. Trong nghệ thuật dùng từ, tác giả chọn những từ láy lom khom, lác đác, các từ tượng thanh quốc quốc, gia gio gợi hình, gợi cảm, tác động vào sự suy ngẫm, liên tường của người đọc. Thêm nữa, trong cấu trúc câu, xuất hiện phép đảo ngữ tài tình. Ở câu ba, động từ lom khom đảo lên trước danh từ tiều vài chú, xuống câu bốn, tính từ lác đác đảo lên trước danh từ chợ mấy nhà. Nhờ đó, ấn tượng về dáng hình vất vả của người tiều phu, sự thưa thớt, quạnh hiu của lều chợ được nhấn mạnh như nét đậm trong bức tranh… Có thể nói, sáu câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống con người, nhưng còn hoang sơ. Cảnh được nhìn vào lúc chiểu tà, tác giả đang trong cảnh ngộ phải xa nhà, mang tâm trạng cô đơn, nên không gợi nên cảm giác vui, dẹp mà buồn và vắng lặng. Từ cảnh, toát ra tình cảm con người. Mỗi câu thơ đều có ý nghĩa biểu cảm, trĩu nặng hồn người. Đọc thơ, chúng ta hiểu tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan: buồn, cô đơn, hoài cổ. Tiếng chim quốc nhớ nước, tiếng chim đa đa (đọc trệch thành gia gia) thương nhà cũng chính là tiếng lòng thiết tha, da diết của tác giả nhớ gia đình, nhớ quá khứ của đất nước. Hai từ quốc quốc và gia gia vừa tả thực, nói về hai loại chim, vừa ẩn dụ, gợi liên tưởng tới quốc – gia, Tổ quốc và gia đình, nước và nhà đã và đang cất lên tiếng kêu, tiếng gọi tha thiết khiến lòng người không thể thờ ơ.

Đến hai câu thơ cuối:                                     

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,                                     

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

thì "lòng người", tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan được giãi bày trực tiếp. Đến đây, ngòi bút tả cảnh ngụ tình chuyển sang ngòi bút tâm trạng, thơ hướng nội, tâm tình. Đối mặt trước cảnh trời, non, nước bao la, hùng vĩ, nhà thơ cảm thấy mình như nhỏ bé hẳn lại, nỗi nhớ nhà, thương nước càng thêm da diết, thẳm sâu.

Vậy mà không có ai, không tìm được ai để san sẻ, tâm tình, đành ta với ta, "Một mình mình biết, một mình mình hay" (Nguyễn Du – Truyện Kiều). Ở đây lại xuất hiện một đối lập nữa. Cảnh trời, non, nước, rộng lớn đối lập với một mảnh tình riêng nhỏ hẹp. Cảnh càng rộng lớn, hùng vĩ bao nhiêu thì mảnh tình riêng càng nặng nề, khép kín bấy nhiêu. Cụm từ ta với ta bộc lộ nỗi cô đơn gần như tuyệt đối của tác giả. Nhưng đây không phải là nỗi cô đơn tiêu cực, bi luỵ mà là tấm lòng đau đáu, thiết tha của nữ sĩ Thanh Quan đối với đất nước, đối với gia đình, đáng cảm thông và trân trọng.

Đọc Qua Đèo Ngang, chúng ta cảm nhận, bài thơ trang nhã, rất tiêu biểu cho thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan. Đèo Ngang hiện lên với cảnh thiên nhiên bát ngát, hùng vĩ, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn heo hút, hoang sơ, đủ gợi lên trong tâm hồn tác giả một nỗi nhớ nước, thương nhà, một nỗi buồn cô quạnh, não nề.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan – Bài làm 4

Trên một trăm năm mươi năm trước, có thể trong dịp vào Huế nhận chức Cung trung giáo tập, chức nữ quan dạy học cho các cung nữ, Bà Huyện Thanh Quan đã sáng tác bài Qua Đèo Ngang, một bài thơ hay, một bức tranh tâm trạng "nhớ nước", "thương nhà" độc đáo.

Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà 
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Tác giả đến Đèo Ngang vào lúc chiều tà bóng xế, cảnh đẹp nhưng buồn. Ở đây, cỏ cây hoa lá chen chúc, xô bồ. Lối điệp từ (chen), điệp vần (lá, đá, hoa) gợi nét hỗn độn hoang vu của một vùng núi non hiểm trở. Bà đưa mắt nhìn xuống dưới núi, bên sông. Bóng dáng con người thấp thoáng nhỏ bé, thưa thớt lác đác, lom khom, tiều vài chú, chợ mấy nhà. Cảnh vật ấy đủ để nhà thơ cảm nhận một cách sâu lắng cái buồn vắng quạnh hiu của một chiều tà ở miền sơn cước.

Bốn câu sau bài thơ mượn cảnh tả tình, nói lên tâm sự của tác giả trước cảnh ấy.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc 
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia 
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Lúc chiều tà trên đèo vắng, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng đa đa vô hồi thắt quặn trong lòng nhà thơ càng gợi thêm nỗi niềm vời vợi nhớ thương. Bà nhớ nhà, nhớ quê, nhớ một thời vàng son nào đó đã qua trong một nỗi niềm cô quạnh buồn thương man mác của tâm hồn.

Khép lại bài thơ là hình ảnh bé nhỏ của nữ sĩ trước mặt là "trời non nước" vô tình như mở rộng ra đến vô tận. Chính vì vậy, bà cảm thấy cô đơn, quanh quẽ, đành quay về với chính mình, đối diện với chính mình “ta với ta” Hai chữ "ta" nhưng vẫn chỉ có “một mảnh tình riêng” nghĩa là vẫn chỉ có một người. Điều này đủ thể hiện nỗi cô đơn cùng cực của nữ sĩ khi ấy.

Về mặt nghệ thuật, Qua Đèo Ngang thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật, một thể thơ vốn kiểu cách, sang trọng. Thế nhưng, với ngòi bút tài hoa điêu luyện của tác giả, bài thơ có ngôn ngữ giản dị, trong sáng này đã trở nên gần gũi, thân thuộc với tất cả mọi người. Bài thơ khiến ta thêm yêu đất nước với bao cảnh đẹp tình sâu và thêm trân trọng những hồn thơ rung động diệu kì trước những bức tranh non sông gấm vóc.

Thu Thủy (Tổng hợp)
 

0