28/05/2017, 15:08

Phân tích vẻ đẹp con người lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao – Văn mẫu lớp 9

Phân tích vẻ đẹp con người lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao – Bài làm 1 Trước cánh mạng tháng tám nhân dân ta sống trong cảnh lầm than bần cùng thế nhưng những con người ấy vẫn hiện với những phẩm chất tốt đẹp cao cả. Cái đói kia ,lũ thực dân kia ...

Phân tích vẻ đẹp con người lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao – Bài làm 1 Trước cánh mạng tháng tám nhân dân ta sống trong cảnh lầm than bần cùng thế nhưng những con người ấy vẫn hiện với những phẩm chất tốt đẹp cao cả. Cái đói kia ,lũ thực dân kia không thể làm mất đi vẻ đẹp tâm hồn trong con người họ. Và cú như thế họ bước vào trang văn với vẻ đẹp tâm hồn mình. Nêú Ngô ...

Phân tích vẻ đẹp con người lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao – Bài làm 1

Trước cánh mạng tháng tám nhân dân ta sống trong cảnh lầm than bần cùng thế nhưng những con người ấy vẫn hiện với những phẩm chất tốt đẹp cao cả. Cái đói kia ,lũ thực dân kia không thể làm mất đi vẻ đẹp tâm hồn trong con người họ. Và cú như thế họ bước vào trang văn với vẻ đẹp tâm hồn mình. Nêú Ngô Tất Tố đã thành công khi khắc họa cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nghèo qua tác phẩm chị Dậu thì Nam Cao cũng góp phần giới thiệu thêm những mảnh đời nông dân khổ cực khác qua tác phẩm Lão Hạc. Đó là một ông lão gầy gò ,ốm yếu ngày đêm cố giữ lấy mảnh vườn để đợi con trai về.

Có thể nói hình ảnh người nông dân nghèo đói lầm than sống nơi bùn lầy nước đọng ,sống quay quắt cho qua ngày hay chính là đang cố gượng sống đã trở đi trở lại rất nhiều trong sáng tác của Nam Cao. Hình ảnh Lão Hạc là một trong số những tác phẩm ấy. Lão hiện lên chân thật đẹp đẽ với những tính cách của một người nông dân hiền lành chất phác. Nhưng thật trớ trêu khi xã hộ thực dân thối nát ấy đã nhẫn tâm cướp đi một con người như vậy. Đoạn trích Lão Hạc được trích trong truyện ngắn cùng tên nhưng có thể thấy đây là đoạn hay nhất. Đặc biệt nó thể hiện rõ vẻ đẹp trong tâm hồn của Lão Hạc.

Trước tiên Lão Hạc hiện lên với vẻ đẹp của môt người nông dân hiền lanh chất phác- một bản chất thật thà đáng quý và tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Vợ lão mất sớm còn con trai của lão thì đi vào Nam làm phu một đồn điền cao su. Lão hằng ngày mong ngóng con trai mà chăng có tin tức gì. Dù nghèo khổ nhưng lão vẫn nhất quyết giữ lại mảnh vườn cho con trai của mình. Hằng ngày lão phải ăn dáy ,ăn củ chuối ,và cả sung muối để tích góp tiền đợi con trai lão trở về. Ông chỉ có mỗi con chó là cậu vàng để bầu bạn. Tuy nghèo nhưng lão vẫn không bao giờ làm hại ai ,không có kiểu bần quá hóa liều. Lão vẫn giữ phẩm chất thật thà của một người nông dân. Lão thà ăn những thứ tồi tệ nhất còn hơn làm điều trái với lương tâm.

Không chỉ thế Lão Hạc còn hiện lên với vẻ đẹp của một người sống tình nghĩa và giàu lòng tự trọng. Ở làng ông tin tưởng ông giáo nhất ,chuyện gì cũng kể cho ông giáo để xin ý kiến. Môi khi ông giáo ngỏ ý giúp đỡ thì lão đều không chấp nhận ,kể cả đến khi ông chết đi ông cũng không vay của ai một đồng nào. Điều đó cho thấy lòng tự trọng của lão rất lớn. Hơn thế lão cũng biết nhà ông giáo cũng chẳng có gì hơn lão cả ,ông giáo còn con còn vợ thì phải lo nhiều không thể để ông ấy bận tâm đến mình mà khổ vợ con ông ấy được.

Trong suốt quãng đời của lão nếu không có cậu vàng bên cạnh thì lão buồn chết mất. Ngày qua ngày lão chỉ làm bạn với nó mà thôi. Ông không đủ ăn nhưng cũng cố gắng gượng nuôi nó ,có những lúc không còn cái ăn lão khẽ thì thầm với nó và dường như nó cũng hiểu cho nỗi khổ của ông lão. nhưng rồi đên một ngày kia khi lão không đủ sức nuôi nó nữa ông quyết định bán nó đi. Quyết định thật không dễ dàng đối với ông chút nào. Làm sao ông có thể nhẹ nhàng thanh thản khi bán đi một người bạn suốt ngày bên cạnh lão. nhưng khổ thay lão không còn cách nào khác nữa. Hơn thế cậu vàng là kỉ niệm duy nhất về đứa con trai của ông. Ông bán đi cậu vàng rồi tủi thân sang nhà ông giáo để kể giãi bày. Nhìn bộ dạng lão đáng thương lắm “ cười mà như mếu ,đôi mắt ầng ậc nước ,mặt lão đột nhiên có rúm lại ,những nếp nhăn xô lại với nhau ,ép cho nước mắt chảy ra ,cái đẫu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít ,lão hu hu khóc”. Đây quả là một đoạn văn hay miêu tả tột bậc sự đau khổ khi mất đi con vàng ,khi mà chính bản thân ông đã không giữ lời hứa với một con chó. Một tâm trạng tự trách mình bao trùm đầy dằn vặt trong tâm can ông lão.

Lão Hạc là một người giàu tình yêu thương cao cả và đức hi sinh. Nếu bán đi mảnh vườn ấy có lẽ lão sẽ không phải lo gì đến cuối đời nữa nhưng ông không làm thế. Tất cả những gì ông phải chịu cốt là để đợi con trai của mình trở về tận tay giao cho nó mảnh vườn và ngôi nhà cũ kĩ ấy. lão giữ để lấy vợ cho con trai mình. Dù cho con trai lão có bạt vô âm tín không biết còn sống hay đã chết nhưng lão vẫn hy vọng vẫn mong ,và vẫn giữ mảnh vườn cho đến hơi thở cuối cùng. Ngay cả khi ông chết đi ,ong cũng gửi ông giáo ba mươi đồng bạc phỏng khi ông chết và số còn lại là để khi con trai ông về thì nhờ ông giáo gửi giúp. Quả thật đức hy sinh cao cả ấy thật làm xúc động lòng người ,thật đáng trân trọng. Một tình cha cao “ như núi Thái Sơn” của một vị người cha già suốt một đời nghèo nàn nhưng không bao giờ chịu ung sướng mà quên đi con tai mình.

Lão Hạc chết đi trong đau đớn nhưng cái chết của lão mang một vẻ đẹp khó quên trong lòng người đọc. Phải chăng đó là cái chết bất tử với thời gian vì khi nhắc đến tên ông thì ông ai là người không biết cả. Ông đã tìm đêns bả chó ,tìm đến cái chết chấm dứt cuộc sống đau khổ này ,chấm dứt những dằn vặt mà ông đã gây ra cho cậu vàng và hơn thế nữa để không động đến số tiền mà ông đã dành dụm cho con trai mình. Ông chết di nhưng chính cái chết ấy là sự chứng minh ,là sự tổng kết vẻ đẹp trong con người nông dân nghèo ấy. Thật đáng thương cho cái chết thương tâm của lão. nhà văn Nam Cao đã miêu tả cái chết của lão như sau: “ tôi xồng xộc chạy vào ,lão Hạc đang vật vã ở trên giường ,đầu tóc rũ rượi ,quần áo xộc xệch ,hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo ,bọt mép sùi ra ,khắp người lại chốc chốc lại giật lên một cái ,nảy lên”. Tại sao lão lại chọn cái chết đâu đớn đến như vậy ,phải chăng lão đang tự trừng phạt mình? Lão trừng phạt mình vì đã bán đi cậu vàng ,trừng phạt mình đã để con trai bỏ đi mà không có cách nào ngăn cản. Nhưng qua cái chết hay sự trừng phạt bản thân của Lão Hạc ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn lão quả thật đáng quý biết bao ,người nông dân nghèo ấy ra đi để lại biết bao sự thương xót.

Có thể nói nhà văn Nam Cao đã đem đến cho chúng ta một bức chân dung của người nông dân già nua khắc khổ nhưng giàu tình thương mến. Lão không chỉ giàu tình nghĩa với người mà còn giàu tình nghĩa với con vật như cậu vàng. Vì cậu vàng giống như một người bạn của lão chứ không phải là con vật nuôi nữa. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình cùng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc Nam Cao khắc họa lên vể đẹp của Lão Hạc ,một vẻ đẹp chất phác thật thà ,đôn hậu và giàu lòng tự trọng.

Phân tích vẻ đẹp con người lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao – Bài làm 2

Người nông dân trước Cách mạng tháng Tám đã đi vào những trang sách của Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Nguyễn Công Hoan (Bước đường cùng)…. Nam Cao đã có những đóng góp xuất sắc vào thành tựu chung của dòng văn học hiện thực phê phán, Chí Phèo trở thành bất tử và Lão Hạc cũng là một điểm son trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao.

Số phận người nông dân luôn luôn là điều trăn trở với Nam Cao. Lão Hạc thật đáng thương, vợ chết để lại một đứa con và một mảnh vườn. Tất cả tình thương và hi vọng của lão Hạc đều dành cho đứa con. Khi con khôn lớn, lão tính chuyện cưới vợ cho con, mừng là “hai đứa mê nhau lắm” nhưng vì nghèo quá, mà người ta lại thách cưới nặng quá: “nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại còn cau, còn rượu…. cả cưới nữa thì mất đến cứng hai trăm bạc…”. Thất vọng, đau buồn đứa con của lão bỏ nhà ra đi làm phu đồn điền ở Nam Kì. Khi chia tay, nó nói với lão: “Con đi chuyến này cố chí làm ăn bao giờ có bạc trăm con mới về, không có tiền sống khổ sống sở ở cái làng này nhục lắm”.

Khi con đi rồi, còn lại mảnh vườn ba sào, lão tự bảo: “Cái vườn là của con ta… của mẹ nó tậu thì nó được hưởng”. Lão nghĩ thế và làm đúng như thế, dù có đói khổ đến cùng cực, lão vẫn không chịu bán mảnh vườn, tất cả hoa lợi thu được lão bán để dành dụm riêng ra chờ ngày con trở về làng cưới Vợ: “cho vợ chồng nó có chút vốn mà làm ăn…”. Tội nghiệp cho ông lão, “lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về cũng có được trăm đồng bạc”. Nhưng khốn nạn thay, lão bị một trận ốm đúng hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu vốn liếng dành dụm được đều hết nhẵn. Sau trận ốm, người lão yếu hẳn đi, không làm được việc nặng, việc nhẹ thì người ta tranh hết, lão phải cầm hơi qua ngày bằng củ chuối, rau má, củ ráy, con trai, con ốc..

Và đến những ngày cuối cùng, khi cảm thấy sức tàn lực kiệt không thể sống được nữa, lão tính đến chuyện kết thúc cuộc đời và trước khi “ra đi” lão vẫn nghĩ đến hạnh phúc của đứa con. Tác giả đã kể lại lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm….”. Cảm động biết bao về tấm lòng yêu thương bao la và đức hi sinh cao cả của một người khốn khổ!

Lão sống cô đơn buồn tủi, trong những ngày xa con chỉ có “cậu Vàng” làm bạn với lão. Vàng là kỉ niệm của con để lại, càng thương nhớ con lão càng quý mến Vàng. Lão âu yếm gọi “cậu Vàng” như một bà “hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”, lão chăm sóc nó như một đứa con, “lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu”. Lão âu yếm trò chuyện với nó: “Cậu có nhớ bô" cậu không, hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm không có thư về,..”. Yêu thương Vàng đến như thế nhưng bị dồn vào bước đường cùng lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Kể lại với ông giáo, lão đau đớn xót xa tột cùng: “mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép ra nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…” – Lão khóc như một người có tội, một người già bằng này tuổi đầu còn đánh lừa một con chó! Một con người lương tâm bị dày vò vì không thủy chung với một con chó, con người đó có một tấm lòng đôn hậu và cao cả biết nhường nào!

Lão Hạc bề ngoài trông có vẻ lẩm cẩm, gàn dở nhưng lại là con người luôn tỉnh táo để toan tính thu xếp mọi việc, con người giàu lòng tự trọng. Lão không muốn phiền lụy ai khi sống và cả khi chết. Lão từ chối mọi sự thương hại kẻ khác, cho đó là sự CƯU mang chân tình.

Ngay cả với ông giáo, người hàng xóm gần gũi và tin tưởng nhất lão cũng từ chối sự giúp đỡ và có khi lão từ chối một cách gần như hách dịch. Lão tính đến cái chết, khi nằm xuống không gây phiền hà cho hàng xóm, nếu không “thì chết cũng không nhắm mắt”. Nhịn ăn, tích góp được 25 đồng với năm đồng tiền bán chó, lão gửi ông giáo nhờ làm ma cho lão.

Lão Hạc đã chết! Cái chết của lão thê thảm quá. Ta nhớ lại cái làng Vũ Đại ngày ấy, Chí Phèo đã tự kết liễu đời mình bằng một mũi dao. Chí chết vì muốn lương thiện mà xã hội không cho làm người lương thiện. Lão Hạc chết vì muốn gửi trọn nhân cách phẩm giá. Lão mượn miếng bả chó để tự kết liễu. Tội nghiệp cho lão, lão vật vã trên giường, đầu óc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra…”. Chỉ có ông giáo và Binh Tư mới biết rõ nguyên do cái chết đau đớn, dữ dội của lão. Cái chết bi thương của lão càng làm sáng tỏ thêm phẩm chất cao đẹp của một nông dân lương thiện.

Hình ảnh lão Hạc trong những giây phút cuối cùng gợi lên trong lòng ta niềm thương xót ngậm ngùi về số phận bi thảm của những người nông dân trong xã hội cũ.

Phân tích vẻ đẹp con người lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao – Bài làm 3

Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, Lão Hạc là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.

Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng… đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần hồi làm thuê Kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy nhục lắm đã phẫn chí đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa về. Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài hơn hai tháng. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào mà vẫn đói deo đói dắt. Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!

Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (…) Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế nào khi nghe lão Hạc nói về ý định phải bán con chó. Cậu Vàng ăn khỏe, mỗi ngày cậu ấy ăn bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào. Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng lấy tiền đâu mà nuôi được? Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục… Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi kịch. Lão cảm thấy mình là một kẻ tệ lắm, đã già mà còn đánh lừa một con chó! Đói khổ, túng bấn, cô đơn… ngày một thêm nặng nề… lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo gần như là hách dịch.

Lão xa ông giáo dần, xa chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn, thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra… vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!

Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao. Lang Rận thắt cổ chết… Và Lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo: … nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?:. Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người !

Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn vì không có tiền để cưới vợ, lão thương con lắm… Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi (…) Nó là người của người ta rồi, chứ đâu có còn là con tôi? Cao su đi dễ khó về (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi bằn bặt năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về có chút vốn mà làm ăn. Lão tự bảo: Mảnh vườn là của con ta… Của mẹ nó tậu thì nó hưởng…. Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ lại trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kỳ to lớn.

Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó Vàng của người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là cậu Vàng. Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết… Ông để cậu Vàng ông nuôi… Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông nhiều đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.

Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy…, ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão cười hồn hậu và khất ông giáo cho để khi khác. Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối: một cách gần như hách dịch. Bất đắc dĩ phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: Cái vườn là của con ta (…). Của mẹ nó tậu thì nỏ hưởng. Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để lỡ có chết… gọi là của lão có tí chút…, vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ làm nghề ăn trộm ở phần cuối truyện, tạo nên một sự so sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.

Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng… Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.a

Từ khóa từ Google

0