06/05/2018, 08:40

Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Văn mẫu hay lớp 8

Xem nhanh nội dung Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bình Định Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những ...

Xem nhanh nội dung

Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bình Định

Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn" (Xuân Diệu).

Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được Trần Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng trối của người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau thương. Tiếng lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa. Tác giả quả là đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lòng ấy.

Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8 câu thơ đầu): diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lòng; phần 2 (20 câu tiếp): phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ còn lại): xót phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.

Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:

Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,

Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.

Bốn bề hổ thét chim kêu,

Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.

Trong cuộc ra đi không có ngày trở lại thì biên ải này chính là điểm mà Nguyễn Phi Khanh vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ sắp ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang tóc, thê lương. Tâm sầu, cảnh sầu cũ khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài dằng dặc. Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn bài, không khí thời cuộc năm xưa (thời Phi Khanh – Nguyễn Trãi) và cũng là không khí của xã hội Việt Nam những năm 20 thế kỉ XX. Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,

Chút thân tài lần bước dặm khơi,

Trông con tầm tã châu rơi,

Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.

Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li biệt, tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Tàu. Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng Phi Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người sắp ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời mà người còn sống phải khắc cốt ghi xương.

Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo trong phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phác ra tình cảnh đau thương của đất nước lầm than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông"; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:

Thảm vong quốc kể sao xiết kể,

Trông cơ đổ nhường xé tâm can,

Ngậm ngùi đất khóc giời than,

Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh mang tầm vóc vĩ mô: vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi thiết: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ là một tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:

Cha xót phận tuổi già sức yếu,

Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,

Thân lươn bao quản vũng lầy,

Giang sơn gánh vác sau này cậy con.

Con nên nhớ tổ tông khi trước,

Đã từng phen vì nước gian lao.

Bắc Nam bờ cõi phân mao,

Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…

Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy nan, đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của tổ tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào con trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.

Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.

Phân tích – Bình luận bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải – Bài làm 2

Tuy sinh sau Tản Đà sáu năm, nhưng Trần Tuấn Khải vẫn được coi là nhà thơ lãng mạn cùng thời với Tản Đà. Nếu Tản Đà có những ước mơ thoát tục vươn lên chốn bồng lai, thì thi sĩ họ Trần có bút danh Á Nam lại thường trốn tránh thực tại, thả hồn về với quá khứ, nhất là những trang lịch sử quá khứ hào hùng của dân tộc. Qua những câu chuyện, những nhân vật lịch sử, Trần Tuấn Khải gửi gắm lòng yêu nước, thương dân một cách thiết tha mà kín đáo. Nhà thơ Xuân Diộu nhận xét : "Các đề tài của lịch sử nước nhà giúp cho Á Nam cái cớ và cái chất để phóng túng ngòi bút, mở rộng tâm tình và cũng kích động đồng bào, bởi người Việt Nam ta rất yêu nước, động đến lịch sử là rung động dây đàn yêu nước, thương nòi của mọi lòng người". Tác phẩm Hai chữ nước nhà là tiếng nói yêu nước của nhà thơ, cũng là những lời "kích động" tấm lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta lúc bấy giờ. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, hoá thân vào nhân vật Phi Khanh ("Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu"), nhà thơ yêu nước Trần Tuấn Khải muốn thức tỉnh nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX hãy đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, cứu Tổ quốc. Nghĩa trực tiếp của bài thơ – nhất là của đoạn đầu 36 dòng thơ song thất lục bát – là lời cha dặn con, nhưng ý nghĩa chính, cảm hứng bao trùm là tiếng hịch của non sông đất nước truyền ra, thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí quật cường, cứu nước của tuổi trẻ Việt Nam. Tiếng hịch ấy vang lên từ hơn tám mươi năm trước mà ngày nay đọc lại, chúng ta vẫn xúc động.

Tám câu thơ mở đầu vẽ lại khung cảnh hai cha con Phi Khanh – Nguyễn Trãi trò chuyện và nỗi lòng sầu tủi của mỗi người:

Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,

Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.

Bốn bề hổ thét chim kêu,

Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,

Chút thân tàn lần hước dặm khơi,

Trông con tầm tã châu rơi,

Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.

Cuộc chia li diễn ra nơi biên cương thật heo hút, ảm đạm. Trông lên Bắc, phía Trung Quốc, chi thấy mây sầu. Nhìn về Nam, quê hương đất Việt chỉ nghe tiếng gió dìu hiu. Xung quanh bốn bề rừng núi là tiếng hổ thét, chim kêu,… Đây là điểm giáp ranh hai nước Việt – Trung. Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Phi Khanh, thì đây là điểm cuối cùng để rồi vĩnh biệt Tổ quốc, quê hương. Tâm trạng ấy đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc thê lương và cánh vạt ấy lại càng như giục cơn sầu trong lòng người. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ thấm một nỗi buồn và rất gợi cảm. Nhà thơ đã hoá thân vào tâm trạng Phi Khanh, miêu tả ngoại cảnh thời kì Phi Khanh – Nguyền Trãi sống, nhưng vẫn gợi cho người đọc không khí thời đại những năm hai mươi đầu thế kỉ XX u ám, sầu thương. Ngôn ngữ thơ tuy có chút cũ kĩ, ước lệ vẫn tạo được không khí cho toàn bài, nhất là nó có ý nghĩa tạo nền cho tâm trạng hai cha con trong cuộc biệt li. Bốn câu tiếp ngay sau đó rớm máu và đẫm lệ. Cha thì uất nghẹn, hòn máu nóng thấm quanh hồn nước ; con thì sụt sùi, tầm tã châu rơi. Hoàn cảnh ấy thật éo le. Cha bị bắt sang Tàu, không ngày trở lại. Con muốn đi theo, phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu. Cha rất hiểu lòng con. Nhưng chữ trung lớn hơn chữ hiếu nên cha dằn lòng khuyên con trở lại để lo việc nước. Câu chuyện lịch sử kì diệu, thiêng liêng dó, người dân Việt Nam ai cũng biết và cũng đã từng được nhiều văn nghệ sĩ kể lại, nay được Trần Tuấn Khái nhấn mạnh thêm. Cho nên dù trong ngôn từ có "máu" hoà với "châu rơi", lời cha dặn vẫn rất chân thành và thiêng liêng, không chút sáo mòn, ước lệ. Nói khác đi, đây là lời trăng trối, lòi huyết lệ của tình cha con, cũng lạ lời non sông đất nước. Câu cuối của đoạn thơ : "Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên" rất mộc mạc mà nghe nhói tận trong tim. Nó truyền cám, lay mạnh trái tim người đọc chúng ta. Nhưng có lẽ của cuộc đời và lòng người như thế được thể hiện bằng thể thơ song thất lục bát – một thể thơ vừa gân guốc, trang trọng, vừa mềm dịu, thiết tha – thường dùng làm những khúc ngâm, những trường ca trữ tình. Trong văn học trung đại Việt Nam, chúng ta đã được đọc Chinh phụ ngâm khúc nổi tiếng theo bản dịch chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm. Giờ đây, đọc khúc ngâm mở đầu Hai chữ nước nhà này của Trần Tuấn Khái, ta như gặp lại những âm điệu của Chinh phụ ngâm khúc vừa tự sự, vừa miêu tả trữ tình, biểu ý và biểu cảm khá hài hoà.

Xuống đoạn hai – 20 dòng thơ tiếp theo – Nguyễn Phi Khanh nhắc nhở con trai (cũng là lời Á Nam), nhắn gửi người đời về tình cảnh đất nước dưới gót giày quân xâm lược. Sau mấy lời tóm tắt truyền thống anh hùng của dân tộc "Giời Nam riêng một cõi này – Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì", là bức tranh thê thám của non sông đất nước:

Bốn phương khối lửa hừng bừng,

Xiết hao thảm hoạ xương rừng máu sông!

Nơi đô thi thành tung quách vỡ,

Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,

Làm cho xiêu tán hao mòn,

Lạ gì khác giong dễ còn thương đâu!…

Về nghĩa gốc, doạn thơ miêu tả "vận nước" ta khi bị "quân Minh thừa hội xâm lãng". Nhưng người đọc cảm nhận rõ đây chính là hình ảnh quê hương, Tổ quốc Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và sự suy dồi bạc nhược của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Những hình ảnh đặc tả khói lửa hững hừng, thành tung quách vỡ kết hợp với những hình ảnh ẩn dụ xương rừng, máu sông và những chi tiết khái quát bỏ vợ lìa con, xiêu tán hao mòn,… nối tiếp nhau hiện lên. Tác giả dã nhập vai nhủn vật Phi Khanh – một nạn nhân vong quốc đang đi vào cõi chết – vừa miêu tả hiện tình đất nước vừa lên án tội ác kẻ thù. Cho nên, lời thơ vừa tả thực vừa trĩu nặng những cám xúc chân thành, xót thương và căm. giận. Chắc rằng, người đọc những năm hai mươi của thế kỉ XX cũng là những nạn nhân vong quốc đã dỗ dàng dồng cảm với nhà thơ khi đối chiếu ngôn ngữ hình ảnh thơ với thực tế cuộc sống, đất nước ta lúc bấy giờ. Hơn nữa, sau những dòng thơ cực tả như thế, tác giả trực tiếp bày tỏ cảm xúc bàng những lời cảm thán, những tiếng nói từ gan ruột mà thốt lên:

Thâm vong quốc kể sao xiết kể,

Trông cơ đồ nhường xé tâm can,

Ngậm ngùi đất khóc giời than,

Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,

Sóng Hồng Giang nhường vật cơn sầu,

Con ơi! Càng nói càng đau,

Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?…

Trừ hai tiếng "con ơi" là lời của Phi Khanh gọi Nguyễn Trãi, còn lại, tất cả chính là lời của nhà thơ, hơn nữa, đây là lời của non nước nhắn gửi quốc dân đồng bào. Vì thế, tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh lớn lao, kì vĩ: đất khóc, giời than, Khói Nùng Lĩnh xây khối uất, Sóng Hồng Giang nhường vật cơn sầu,… Nỗi đau mất nước, mất tự do như lên đến tột đỉnh, kết lại thành những cơn đau xé tâm can, những khối đau cuồn cuộn mịt mờ như sương khói phủ tối núi non, những dòng đau cuồn cuộn, vật vã như sóng nước sông Hồng. Nhà thơ đã sử dụng nhiều từ ngữ khoa trương, nhiều ẩn dụ đặc sắc rất sát hợp những cung bậc cảm xúc vừa đau đớn xót xa vừa căm hờn cháy bỏng. Chẳng rõ, khi viết những dòng thơ này, Á Nam có nghe tiếng đồng vọng của những lời trong Hịch tướng sĩ, nhất là những câu trong Bình Ngô đại cáo ngày xưa:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bào thần nhân chịu được?

Dù thế nào thì đây vẫn là những tiếng hịch truyền, những lời bố cáo của một tủm hồn yêu nước thiết tha mong muốn thức tỉnh nhân dân, đồng bào nhận rõ hiện tình đất nước để có những suy nghĩ, những hành động đúng đắn, kịp thời đứng lên cứu nước.

Lời kêu gọi cứu nước tập trung ở tám dòng thơ cuối:

Cha xót phận tuổi già sức yếu,

Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…

Trở lại với câu chuyện Phi Khanh – Nguyễn Trãi, chúng ta thấu hiểu cảnh ngộ và nỗi lòng của người cha đau đớn. Có lẽ, đau cho thân phận của riêng mình thì ít, mà đau cho vận nước đang cơn bĩ cực thì nhiều, nên Phi Khanh đành "bó tay", chấp nhận "thân lươn bao quản lấm đầu" để gửi gắm tất cả khát vọng và niềm tin vào con trai, vào thế hệ trẻ bấy giờ:

Giang sơn gánh vác sau này cậy con.

Con nên nhớ tổ tông khi trước,

Đã từng phen vì nước gian lao,

Bắc Nam bờ cõi phân mao,

Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…

Lời Phi Khanh dạy con, hay chính là những tâm sự của Trần Tuấn Khải muốn gửi tới các bạn đọc đương thời? Nghe giọng điệu bên ngoài thì rõ ràng đây là lời cha dạy con. Các từ ngữ cậy con, con nên nhớ… vang lên trang trọng, tha thiết. Song suy ngẫm vào nội dung bên trong của "lời dạy", ta hiểu rằng đây cũng là lời tâm sự sâu kín của chàng thi sĩ trẻ Trần Tuấn Khải. Bởi vì, tác phẩm Hai chữ nước nhà này được viết năm 1926, lúc nhà thơ 31 tuổi, hẳn chưa dám lên tiếng dạy ai, kêu gọi ai. Nói khác đi, chàng thi sĩ lãng mạn đã hoá thân vào nhún vật lịch sử để giãi bày tâm sự, khát vọng của chính mình. Thấm thìa cảnh ngộ của Phi Khanh và chắc cũng đồng cảm với nỗi niềm Nguyễn Trãi ngày xưa, nhà thơ đã suy ngẫm về lịch sử dân tộc rồi giãi bày khát vọng của chính mình bằng những lời tâm huyết nhất: "Con nên nhớ tổ tông khi trước…". Người thanh niên yêu nước Á Nam "Nghĩ lời ông Phi Khanh…" hay đang mượn lời lịch sử tự dặn mình, để chia sẻ với thế hệ của mình?

Bắc Nam bờ cõi phân mao,

Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…

Hình ảnh "ngọn cờ độc lập" in "máu đào" của cha ông được khẳng định rằng "còn dây" mang nhiều nghĩa. Nó vừa nhắc thế hệ con cháu ngày nay niềm tự hào vể truyền thống anh hùng dân tộc, vừa giục giã, khích lệ hành động. Đối chiếu với mấy lời Phi Khanh mở đầu cuộc chia tay "Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên", ta nhận rõ hơn ý nghĩa đoạn thơ cuối này. Đó vùa là lời của cha ông dặn lại con cháu, cũng là lời hịch của lịch sử, của đất nước vọng về, là lời tâm sự của nhà thơ muốn chia sẻ những khát vọng và niềm tin tới thế hệ trẻ, tới nhân dân lúc bấy giờ. Ngày nay, đọc lại những dòng thơ này, chúng ta làm sao không đồng cảm với nhà thơ những khát vọng, niềm tin cao đẹp ấy? Hình ảnh "ngọn cờ độc lập" tuy kết thúc đoạn trích nhưng lại nhắc ta nhớ tới mấy dòng thơ phần đầu khá ấn tượng:

Giời Nam riêng một cỗi này,

Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!

"Người Việt Nam ta rất yêu nước, động đến lịch sử là rung động dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người…". Nhà thơ Xuân Diệu từng nêu lên một nét truyền thống tốt đẹp như thế trong tâm hồn Việt Nam chúng ta. Từ những dòng đầu nối kết với mấy dòng cuối, khúc ca Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải đã rung dộng "dây đàn yêu nước" trong lòng bạn đọc một thời và truyền tới chúng ta ngày nay như thế đó.

Có thể nói, Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Trần Tuấn Khải. Nhà thơ mượn một câu chuyện lịch sử đặc biệt, có sức gợi cảm lớn là cuộc chia tay giữa hai cha con Phi Khanh – Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan để bộc lộ cảm xúc của mình và khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào. Đoạn đầu 36 dòng thơ tiêu biểu cho nội dung và nét đặc sắc nghệ thuật của cả tác phẩm. Đó là lời cha dặn con, hay cũng chính là tiếng hịch truyền cứu nước chân thành thống thiết. Tinh cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà, sự lựa chọn thể thơ thích hợp và giọng điệu trữ tình của tác giá đã tạo nên những giá trị ấy của bài thơ… 

Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải – Bài làm 3

Trần Tuấn Khải (1895 – 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Là một nhà Nho tiến bộ, ông thường mượn đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước, thái độ căm giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình, đồng thời động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào. Thơ Trần Tuấn Khải được truyền tụng rộng rãi trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, nổi tiếng nhất là những bài hát theo làn điệu dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai chữ nước nhà được viết dưới hình thức thơ lục bát và song thất lục bát.

Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, sáng tác vào năm 1924. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh, một viên quan tài giỏi của triều đình phong kiến đương thời bị giặc bắt đem sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi định đi theo để chăm sóc cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con nên quay về để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.

Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 36 câu là phần mỗ đầu của bài thơ dài 101 câu, nội dung kể lại cuộc chia tay đầy ý nghĩa của cha con Nguyễn Trãi đã được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm đau thương và oanh liệt của dân tộc. Trong cảnh ngộ đau thương, Nguyễn Phi Khanh gạt lệ khuyên con trai bao điều hữu ích. Đất nước thịnh suy là lẽ thường tình. Làm trai phải biết nuốt hận, chờ thời cơ để trả nợ nước, báo thù nhà. Người cha già lực bất tòng tâm, đành gửi trọn niềm tin vào con trai, mong con nối chí lớn của mình, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng đất nước.

Đoạn trích có thể chia làm ba phần:

Phần 1 : Từ đầu… đến lời cha khuyên: Tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh ngộ éo le;

Phần 2: Tiếp theo… đến sau đó mà: Hiện tình đất nước trong cảnh đau thương, tang tóc.

Phần còn lại : Sự bất lực của người cha và lời trao gửi tâm huyết dành cho con.

Tại sao tác giả lại lấy Hai chữ nước nhà làm tựa đề của bài thơ? Tựa đề đó gắn với tư tưởng chung của bài thơ như thế nào?

Nước và nhà vốn là hai khái niệm, nhưng trong hoàn cảnh riêng của hai cha con Nguyễn Trãi thời xưa (thế kỉ XV) và hoàn cảnh chung của đất nước ta vào những năm đầu thế kỉ XX thì hai khái niệm đó lại có mối liên quan không thể tách rời. Nước mất thì nhà tan. Thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa. Bởi thế Nguyễn Phi Khanh muốn nhắc nhở con là hãy lấy nước làm nhà, lấy cái nghĩa với nước thay cho chữ hiếu với cha, như thế là vẹn cả đôi đường.

Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả đã tái hiện khá đầy đủ khung cảnh buổi chia li và tâm trạng đau thương, khắc khoải cua hai cha con Nguyễn trãi. Điều đó giống như “gảy đúng vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người”. (Xuân Diệu).

Có thể coi những lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh trong bối cảnh nước mất, nhà tan là lời trăn trối của cha với con trong giờ vĩnh biệt. Các câu cảm thán đã tạo nên âm hưởng lâm li, thống thiết. Thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng nặng trĩu buồn thương của nhân vật.

Nội dung bài thơ không chỉ đơn thuần mang tính chất hoài cổ mà nó chất chứa tâm sự phẫn uất, đau thương của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan trong hiện tại. Vì vậy, nó làm rung động lòng người và được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức, thanh niên và học sinh yêu nước.

Đốn câu thơ đầu là khung cảnh cuộc chia li:

Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.

Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra ở biên ải phía Bắc vốn là nơi ảm đạm, heo hút, bốn bề rừng núi trập trùng, mây sâu, gió thảm, hổ thốt, chim kêu… Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây tựa điểm dừng chân cuối cùng để rồi vĩnh viễn xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người ruột thịt. Tấm trạng đau đớn của kẻ bị lưu đày biệt xứ đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc, thê lương và ngược lại, cảnh vật ấy càng như giục Cơn sầu trong lòng người vốn nặng tình non nước.

Tình cảm yêu nước của tác giả đã biến những hình ảnh ước lệ và từ ngữ sáo mòn trong thơ cổ điển thành chân thực và cảm động. Dường như tác giả được trực tiếp chứng kiến cuộc chia tay đau đớn ấy và hóa thân vào cả kẻ ở lẫn người đi để thấu hiểu, đồng cảm với tâm trạng nhân vật, từ đó viết nên những dòng thơ máu hòa nước mắt:

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp hữ xưa nay kém gìỊ

Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: cha bị giặc bắt giải sang Tàu, không mong ngày trở lại; con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc đền nợ nước, trả thù nhà. Đối với cả hai cha con, nghĩa nước, tình nhà đều thiêng liêng sâu đậm.

Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lòng họ càng tăng lên gấp bội.

Nguyễn Phi Khanh khuyên con những điều tâm huyết. Trước hết, ông nhắc nhở con về dòng giống cao quý của dân tộc Việt : Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định. Sau đó phân tích cho con hiểu về quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải trải qua các giai đoạn hưng thịnh và suy vong nhưng gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước thì xưa nay không hiếm và không kém gì những gương sáng trong lịch sử phong kiến phương Bắc. Để bảo vệ đất nước, người phụ nữ còn làm nghĩa hiệp, huống chi các bậc nam nhi?!

Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi – người con mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động vô cùng, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.
Tác giả hóa thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị biệt xứ lưu đày, tâm tư trĩu nặng nỗi lo đời để miêu tả tình hình bi thảm của đất nước và lên án tội ác trời không dung đất không tha của quân xâm lược:

Thân vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,   
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

Những câu thơ này xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước trong tâm can người đọc đương thời. Giặc Pháp bây giờ nào có khác chi giặc Minh thuở ấy, cũng đang gây ra bao cảnh đau thương tang tóc trên đất nước ta.

Xen giữa những dòng tâm tư đắng cay, chua xót là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi thương:

Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như : kể sao xiết kể, xé tâm can, thương tâm, lầm than đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Gây xúc động nhất là hình ảnh: Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là “tình cảnh cảm sầu, kể sao cho xiết” đúng như nhận định của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao, vượt lên số phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con là một tiếng than, tiếng nấc nghẹn ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn Khải rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhần vật Nguyễn Phi Khanh. Do đó bài thơ có sức lay động lòng người, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu đương thời.

Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn không lúc nào nguôi trong lòng ông:

Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?

Tác già mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng còn gọi là Nhị Hà) biểu tượng của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình, cơ nghiệp lớn lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời, nay con cháu há lại để rơi vào tay giặc dữ?
Nói đến tình cảnh “lực bất tòng tâm” của Nguyễn Phi Khanh, ngòi bút tác giả như đẫm nước mắt:

Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…

Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều là lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho con. Gánh nặng sơn hà, xã tắc đã uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng. Lời khuyên của cha kích thích, hun đúc chí nam nhi của con, động viên con hãy tỏ ra xứng đáng với sự nghiệp oanh liệt của tổ tông đã bao phen vì nước.

Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Á Nam Trần Tuấn Khải. Tác giả tái hiện cuộc chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan để thông qua đó bộc lộ cảm xúc của mình, đồng thời khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào ta. Tình cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà của tác giả đã tạo nên sức sống lâu dài cho bài thơ.

Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rất đúng: “Hai chữ nước nhà được xem là bài thơ hay nhất đã tổng hợp các mô típ văn thơ yêu nước của Á Nam, từ giọng bi tráng đến giọng mỉa mai, từ chất căm hờn đến lời mắng mỏ, từ sự dỗi tức nguyền rủa bọn Việt gian chết tiệt đến nỗi đau thương ôm lấy bà mẹ giang san”.

Phân tích bài thơ “Hai chữ nước nhà” của Trần Tuấn Khải – Bài làm 4

Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn… được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi.

Đoạn trích bài thơ “hai chữ nước nhà” gồm có 36 câu thơ song thất lục bát được Trần Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập “Bút quan hoài". Trong lời đề từ, nhà thơ nói rõ cảm hứng của mình là “nghĩtới lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu". Qua đó,ta cảm nhận được “Hai chữ nước nhà” là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện cảm hứng yêu nước, kích thích lòng yêu nước cho quốc dân đồng bào khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất nước và dân tộc. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào trong máu lửa, chúng ta bắt cha con ông Hồ Quý Li và một số đại thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh giải về Tàu. Có thể nói bài thơ là lời cha dặn con về “Hai chữ nước nhà”, về mối thù nhà nợ nước.

Trong phần đầu tiên của đoạn trích, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: “mây sâu ảm đạm”, “gió thảm đìu hiu” “hổ thét chim kêu”… Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian rộng lớn từ “chôn ải Bắc” đến “chốn ải Nam’' và “khắp bốn bể” đều thấm máu và nước mắt của hàng triệu con người:

“Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,

Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu

Bốn bể hổ thét chim kêu…”.

Trước thảm cảnh “vong quốc”, người cha già trên con đường đi đày càng ngổn ngang nỗi niềm. Các chữ, các hình ảnh như: “bất bình”, “hạt máu nóng thấm quanh hồn nước”, “tầm tã châu rơi” đã nói lên một cách cảm động “di hận” của người anh hùng thất thế, một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ, giọng thơ thiết tha não nùng:

“Trông con tầm tã châu rơi

Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên”

Nguyễn Trãi có câu thơ chữ Hán “Anh hùng di hận kỉ thiên niên”, nghĩa là người anh hùng để lại mối hận đến nghìn năm. Phần đầu bài “hai chữ nước nhà”, Trần Tuấn Khải đã nói lên thật xúc động nỗi đau nước mất nhà tan, nỗi “di hận” của người anh hùng thất thế Nguyễn Phi Khanh.

Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con. Nhớ “hai chữ nước nhà" là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn “mấy ngàn năm” của dân tộc, là nhớ giang sơn “giời Nam riêng một cõi này”, là nhớ đến bao “anh hùng hiệp nữ” nhưHai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn… Nhớ “Hai chữ nước nhà” là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:

“Giời Nam riêng một cõi này

Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!”

Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân “cuồng Minh”:

“Bốn phương khói lửa bừng bừng .

Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông

Nơi đô thị thành tung quách vỡ

Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,

Làm cho xiêu tán hao mòn

(…)

Khói Hùng Lĩnh như xây khói uất

Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu.

Những từ ngữ hình ảnh “khói lửa bừng bừng”, “xương rừng máu sông", “thành tung quách vỡ", “đất khóc giời than”, “xây khối nát”, “vật cơn sầu”… tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã đem đến liên tưởng cho người đọc về “BìnhNgô đại cáo”đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kể,

Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”.

Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như xé tâm can. Càng đau đớn, ông càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:

“Con ơi! Càng nói càng đau

Lấy ai tế độ đần sau đó mà?”.

Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng là lời non nước.

Tám câu cuối trong phần cuối bài thơ vừa nói lên bi kịch của người cha: “tuổi già sức yếu”, “sơ cơ đành chịu bó tay”… vừa trông cậy vào con để trả thù, rửa hận nước: “Giang san gánh vác sau này cậy con”… Cha thiết tha dặn con lần cuối: “Vì nước” hãy “nhớ tổ tông”, hãy đem máu đào mà hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó là “hai chữ nước nhà” đó là những lời huyết lệ:

“Con nên nhớ tổ tông khitrước

 Đã từng phen vì nước gian lao

 Bắc Nam bờ cõi phân mao

 Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…”.

“Hai chữ nước nhà” là một bài thơ hay và cảm động. Nói lên một cách hàm súc cô đọng nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và căm thù đối với giặc Minh cướp nước. Sâu xa hơn, bài thơ đã khích lệ lòng yêunước của đồng bào, khêu gợi khát vọng độc lập tự do của dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. “Hai chữ nước nhà” vừa là lời cha dặn con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.

Từ ngôn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ những cặp câu thất ngôn đối nhau đến những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất già dặn, giàu bản sắc của Á Nam.

Trong thời Pháp thuộc, bài thơ “Hai chữ nước nhà” đã làm lay động hàng triệu con người. Ngày nay, nó vẫn làm ta xúc động.

Thu Thủy (Tổng hợp)

Từ khóa tìm kiếm

0