16/01/2018, 13:37

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu – Văn mẫu lớp 12

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu – Văn mẫu lớp 12 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu – Bài số 1 Một trong những cái tên nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới chính là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người "mở ...

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu – Văn mẫu lớp 12

Phân tích tác phẩm  Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu – Bài số 1

Một trong những cái tên nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới chính là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người "mở đường tinh anh và tài năng nhất". Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý chân thực. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy là 'Chiếc thuyền ngoài xa'.

Truyện ngắn được ra đời năm 1983, đến năm 1987 được in trong tập truyện ngắn cùng tên. Năm 1983 là thời kỳ độc lập của đất nước ta. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, 'Chiếc thuyền ngoài xa' đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hương chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến "lưới vó biến mất". Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể  vầ phân tích hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến "giữa phá". Câu chuyện của người đàn bà hàng chài được kể tại đây. Phần ba còn lại. Tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.

Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Ai cũng biết, tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện. Tình huống truyện của 'Chiếc thuyền ngoài xa' là tình huống nhận thức. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyên được thể hiện qua hai phát hiên của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.

Đi vào phần một của truyện là một cảnh sắc thiên nhiên đẹp thơ mộng. Phùng đã chụp được một "cảnh đất trời cho": một chiếc thuyền lòe nhòe trong sương sớm với ánh mặt trời ban mai hồng hồng. Một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Đứng trước cảnh đẹp ấy, người nghệ sĩ thấy tim mình như có gì đó "bóp thắt vào". Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện -mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân-thiện-mĩ, cái đẹp là đạo đức. Nhưng để hoàn thiện cho quan niệm về nghê thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã để nhân vật của mình chứng kiến câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài. Đó là một con người hiện thân cho sự lam lũ đói khổ. Từ trong chiếc thuyền đẹp như mơ kia bước ra một cặp vợ chồng. Người vợ "trạc ngoài 40", "mặt rỗ", "thân hình cao lớn thô kệch", "lưng áo bạc phếch", "gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới". Người đàn ông "có tấm lưng rộng", khuôn mặt "độc, dữ". Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Điểm đánh chú ý chính là cảnh bạo hành của hai con người này. Người chồng thì đánh đập người vợ dã man, người vợ thì cam chịu trận đòn. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền. Chính từ cảnh tượng tàn bạo ấy, tác giả đã có thể gửi gắm thông điệp của mình. Đó là cuộc sống có nhiều nghịch lý mâu thuẫn, nếu chỉ quan sát bên ngoài hoặc ở xa thì không thể phát hiện được sự thật bên trong nó. Cái đẹp của nghệ thuật qua ống kính của người nghệ sĩ chưa thể ddue sức mạnh để làm nên đạo đức con người trong cuộc sống. 

Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ. Người đàn bà hàng chài đã đươc chánh án Đẩu mời đến để khuyên chị li hôn với chồng. Nhưng rồi những lời tâm sự của chị đã khiến không chỉ hai chàng trai mà cả người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều. Mặc dù bị đánh đập dã man "ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ" nhưng người phụ nữ vẫn quyết không bỏ chồng. Vì chị thương con, muốn đàn con được ăn no. Vì thương chồng vất vả mà không giúp gì được nên chịu đòn mong có thể san sẻ được với chồng. Rồi chị tự nhận lỗi về mình, chị biết ơn chồng mình. Chị chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi "trên thuyền cũng có lúc sống vui vẻ hạnh phúc". Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điêp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền vời cuộc sống. 

Kết thúc câu truyện, tác giả nhắc lại về bức ảnh chụp của nghệ sĩ Phùng nhằm nhấn mạnh sức ảnh hưởng của nó. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó.

Với cách xây dựng tình huồng truyện đọc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện( nhân vật Phùng), "Chiếc thuyền ngoài xa" đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.

Phân tích tác phẩm  Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu – Bài số 2

Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhát của nền văn học ta hiện nay. Sự tinh anh và tài năng ấy trước hết thể hiện ở quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự công hiến, hi sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thế hiện chủ yếu trong mối quan hệ với kẻ thù, với đồng chí, đồng bào. Sau năm 1975, Nguyền Minh Châu là một trong sô" những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả nàng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chẳng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được cái nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa là phát hiện về đời sông và con người theo đúng hướng đó. Bao nghịch lí đời thường được mở ra: một người trưởng phòng thông minh muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn”, nhưng thực tế không thể tước bỏ được hình ảnh con người; một nghệ sĩ săn được cảnh thuyền và biển thật đẹp thì chính từ cảnh đó lại xuất hiện nhừng cái thật xấu; một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ kẻ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu thế nào đê giải thoát cho một người đàn bà bất hạnh… Đấy là những minh chứng sinh động cho cách nhìn đa diện của Nguyễn Minh Châu, như chính ông từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

– Có thể phân tích tác phẩm theo kết cấu: hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh và câu chuyện của người đàn bà hàng chài.

Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng. Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng đế “chộp được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trăng như sừa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới (…), toàn bộ khung 

cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và dẹp (…), tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt .diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh ta đã bắt gặp lại cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.

Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quá của cuộc sông. Phùng đã từng có cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt dính của ngoại cảnh vừa mang lại, anh đã từng chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức, lại chẳng phải là đạo đức, là chân lí của sự hoàn thiện. Anh ta chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác coi việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những uất ức, khố đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu đề có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thăng Phác, con lão đàn ông, đã kịp tới đế che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thế hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành cua cái ác… Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuôc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thành khủng khiếp, ghê sợ.

Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đấu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khố ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, vậy mà vần nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con: "… dám dàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần có người đàn ông dể chèo chống khi phong ba, dể cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào củng trên dưới chục đứa.. Phải sông cho con chứ không thể sống cho mình…”. Nếu hiếu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy ý nghĩa và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được nhừng niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng tôi nó dược ăn no”; “ơ trên thuyền củng có lúc vợ chồng con cải chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”.

Về nghệ thuật, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyền Minh Châu là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sông. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ môi quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ. Anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lí. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhần nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có một cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyền Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa đế phát hiện tính cách .con người, phát hiện sự thật cuộc đời.

Hơn nừa, ngôn ngừ người kể chuyện và ngôn ngừ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kê chuyện như thê đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sông của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ cách nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; nhừng lời của Đẩu ở toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành: việc sử dụng ngôn ngữ rât linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề – tư tưởng của truyện ngắn.

Tóm lại, từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đăng sau bức ảnh ấy, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, ơ đây là số phận đau đớn của một người phụ nữ, là cảnh ngộ ngang trái trong một gia đình hàng chài hiện dần lên" qua bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm. Từ đó, truyện còn cho thây rõ mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người.

Phân tích tác phẩm  Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu – Bài số 3

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Mỹ. Tên tuổi của ông gắn liền với những tác phẩm đặc sắc mang đậm chất sử thi, anh hùng ca. Sau năm 1975, đất nước thoát khỏi chiến tranh ,bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển trong thời hòa bình,mở ra cho văn học những tiền đề mới, vốn giàu tâm huyết với văn chương, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với kì vọng của nhân dân, nguyễn Minh Châu sớm ý thức được yêu cầu đồi mới tư duy văn học. Tác phẩm của ông từ cảm hứng sử thi lãng mạn chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường.Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được in lần đầu trong tập “ Bến quê”. Sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn, in năm 1987. Chiếc thuyền ngoài xa lện một truyện ngắn đặc sắc, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự đời tư; đồng thời cũng thể hiện sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật của nhà văn

Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu đã tạo nên được một tình huống truyện độc đáo đặc sắc. Qua tình huống này, nhà văn không chỉ làm nổi rõ tư tưởng, chủ đề của truyện ngắn mà còn khắc họa đậm nét tính cách nhân vật.

Thông thường trong thể loại truyện ngắn có 3 loại tình huống phổ biến: tình huống hàng động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu hướng tới tô đậm hành động có tính bước ngoặt của nhân vật; tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm,cảm xúc của nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu lí giải ,cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã lựa chọn kiểu tình huống nhận thức đó là sự ngộ nhận của nhân vật – nghệ sĩ nhiếp ảnh tài năng và lãng mạn. Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo đúng yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là công trường cũ của anh, để dự tính bố cục, đã phục kích mấy buổi sáng để chụp bằng được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới thật bất ngờ, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho, trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: Trước mặt mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe và bầu trời sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh sáng mặt trời chiếu vào. Vài bóng người và trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum đang hóng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những mắc lưới,… Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp… Tôi tưởng chính vừa khám phá thấy chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.

Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xa , giữa trời biển mờ sương , anh đã bắt gặp cái tận thiện, tận mĩ , thấy tâm hồn mình như được gội rửa , trở nên thật trong trẻo tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa lãng mạn của cuộc đời.

Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài năng, có tâm hồn mơ mộng, lãng mạn. Để có một bộ lịch đẹp theo yêu cầu của trưởng phòng ,… Phùng đã bỏ ra nhiều công sức, nhiều tâm huyết để săn tìm bằng được những cảnh đẹp của thiên nhiên, con người. Nhưng công sức bỏ ra của Phùng không uổng phí, anh đã chợp được một cảnh thật đẹp, thật ưng ý đó là hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xa trên mặt biển mờ sương. Bức ảnh có sự hài hòa về đường nét, màu sắc giống như bước tranh cảnh vật của danh họa Trung Quốc thời xưa.

Thế nhưng diễn biến tiếp theo của sự việc đã đặt người nghệ sĩ nhiếp ảnh vào một tình huống bất ngờ và trớ trêu, như trò đùa quái ác của cuộc sống. Nhân vật Phùng đã từng có cái khoảng khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại… “Anh đã từng chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Vậy mà hóa ra đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển kia lại chẳng phải là đạo đức, là chân lí của sự toàn thiện. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền đẹp như như trong mơ ấy, bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch , dữ dằng, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương pháp để giải tỏa những uất ức khổ đau.

Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu vì độc lập tự do dân tộc, vì cái đẹp thanh bình của biển cả hôm nay, anh không thể chịu đựng được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Nhưng, anh chưa kịp xong ra thì thằng Phát con trai lão đã kịp tới che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính là không thể làm ngơ trước sự bạo hàng của cái ác. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản, làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp ghê sợ. Sự đổ vỡ trong nhận thức của Phùng: bức tranh mà anh dày công tìm kiếm và tưởng như đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật đạt tới sự toàn thiện, toàn mĩ … hóa ra lại ẩn chứa đằng biết bao nghịch lý đau lòng, xấu xa. Phùng cũng nhận ra có một khoảng cách khá xa giữa nghệ thuật và cuộc sống. Câu chuyện của người đàn bà làng chài ở Tòa án là câu chuyện về sự thật cuộc sống. Nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý. Nhìn bên ngoài, đó là người đàn bà quá nhẫn nhục, thường xuyên bị chồng đánh đập hành hạ “3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy.

Chỉ qua những lời dãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc của sự hi sinh của bà là tình thương vô bờ bến đối với những đứa con: Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi phải cần có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng, đặng một sấp con, nhà nào trên dưới chục đứa… Phải sống cho các con,  không thể sống cho mình. Sau khi thấy cái biện pháp giáo dục, răn đe người chồng không hiệu quả, Đẩu – với tư cách thẩm phán Huyện đã khuyên người vợ nên li hôn để khỏi bị hành hạ, ngược đãi. Anh mời người đàn bà đến công sở để trao đổi vấn đề này nhưng trong buổi nói chuyện đó, mọi lí lẽ tưởng như thuận tình, hợp lí đó của anh đều bị người đàn bà chất phát, lam lũ bác bỏ. Hóa ra, lòng tốt của anh là lòng tốt phi thực tế. Anh bảo vệ pháp luật bằng sự thông hiểu giấy tờ, sách vở nên trước cuộc sống đích thực, đầy sự bộn bề phức tạp, anh đã trở thành kẻ nông nổi ngây thơ. Người đàn bà thất học quê mùa nhưng thật sâu sắc khi nhìn suốt cả đời mình đã khiến “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố Huyện vùng biển”. Có thể nói, anh vừa ngộ ra những nghịch lí của đời sống – những nghịch lý mà con người buộc phải chấp nhận dù là xót xa chua chát: “Trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợn, tàn bạo”. Phải chăng cũng từ tình huống đó, thẩm phán Đẩu mới hiểu ra rằng: Muốn con ngươi thoát ra khỏi đau khổ tối tăm cần có những giải pháp thiết thực, chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn.

Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn nữ nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng rất đáng chú ý. Người nghẹ sĩ chuyện ỏe đây là nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Hay nói đúng hơn là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huông truyện. Lời kể chuyện cũng trở nên khách quan, chân thật và giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ các nhân vật cũng phù hợp với đặc điểm, tính cách của mỗi người; giọng điệu của lão đàn ông thật thô bỉ,tàn nhẫn với những lời lẽ cục cằn, thô bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi phải nói với con, thật đớn đau và thấu trải khi nói về thân phận của mình; nhẵng lời của thẩm phán Đẩu ở tòa án Huyện rõ là ngôn ngữ , giọng điệu của một con người tốt bụng, chân thành,…

Một tác phẩm có thể có nhiều giọng điệu khác nhau nhưng bao giờ cũng nổi trội một giọng điệu chủ đạo. Chiếc thuyền ngoài xa được triển khai, xoay quanh tình huống tự nhận thức. Nghĩa là, đi từ lầm lẫn, ngộ nhận đến sự “ hiểu biết, giác ngộ” nên sắc thái giọng điệu luôn thay đổi theo diễn biến tình tiết giàu kịch tính: có lúc say sưa hùng biện, lúc hài hước tự trào, lúc khách quan tiết chế, lúc trầm lắng suy tư nhưng có lẽ sắc thái suy  tư-chiệm nghiệm, suy tư-  triết lí nổi bật hơn cả, tạo nên giọng điệu chủ đạo, gợi nhiều lo âu, day dứt hơn là thanh thản, nhẹ nhõm.

Phân tích tác phẩm  Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu – Bài số 4

Căn cứ theo điều Nguyễn Minh Châu lúc sinh thời từng tâm niệm: "Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn" thì có thể khẳng định rằng những gì ông để lại cho đời đã đảm bảo chắc chắn ông là một tài năng và một nhân cách lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông có một vị trí quan trọng trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới sau năm 1975 và ông rất xứng đáng với lời đánh giá của nhà văn Nguyên Ngọc: "Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng của vãn học ta hiện nay".

Mẫn cảm với nghề, Nguyễn Minh Châu ý thức rất sớm về xu thế tất yếu phải đổi mới văn học, mà trước nhất là đổi mới quan niệm về văn chương, về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn. Từ năm 1945 dến 1975, văn học Việt Nam có sứ mệnh phục vụ chiến đấu, nó phải trở thành một vũ khí, một "mặt trận"tư tưởng. Yêu cầu dó quy định cách văn học tiếp cận cuộc sống chủ yếu từ góc độ lịch sử – sự kiện. Những vấn đề của cộng đồng được ưu tiên và được coi như tiêu chí hàng đầu dể định giá tác phẩm. Tự nguyện làm một nhà văn – chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đã góp vào nền văn học kháng chiến những tác phẩm xuất sắc : Cửa sông, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng. Chính trong thời kì hào hùng và cam go ấy, nhà văn ghi vào nhật kí : "Hôm nay chúng ta đang chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc, nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn. Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài". Hoá ra con người là mối bận tâm thường xuyên của ông. Nhận xét văn học viết trong chiến tranh của chúng ta thường có hạn chế lớn : "sự kiện lấn át con người", ông cả quyết rằng sẽ đến lúc vãn học "phải viết về con người", "trước sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống".

Khi đất nước hoà bình, Nguyễn Minh Châu có điều kiên để hiện thực hoá những suy tư đầy sáng suốt đó. Ông coi "văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người", còn nhà văn chân chính thì bao giờ cũng "mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương con người". Tình yêu ấy thôi thúc ông làm một cuộc tự đổi mới âm thầm mà quyết liệt. Trong những sáng tác từ sau nầrn 1975, ngòi bút ông ngày càng nghiêng hẳn về đề tài thế sự, nơi ông có thể đi sâu vào những vấn đề của cá nhân trong mối quan hệ đời thường đa đoan, phức tạp. Rồi từ đó ông đề xuất quan niệm mới mang nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc về con người.

Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985), đánh dấu bước chuyển vững vàng của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (viết xong tháng 8 – 1983) in trong tập Bến quê.

Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này về cơ bản tập trung ở cách tiếp cận đời sống và quan niệm về con người. Chọn số phận cá nhân trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời hậu chiến làm đối tượng khám phá, nhà văn đã kiên quyết khước từ cái nhìn lí tưởng hoá con người, để hiện thực hiện lên với tất cá cái xù xì, góc cạnh của nó. Truyện dường như không có bóng dáng bất cứ một sự kiện chính trị – xã hội nào, chỉ là cuộc sống bế tắc quẩn quanh, thường nhật của một gia đình dân chài vùng đầm phá miền Trung, cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số. Điều tác giả muốn nhấn mạnh là : tính chất phức tạp, bí ẩn của đời sống không thể nhìn bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi. Ông đã sáng tạo một tình huống thật độc đáo và hấp dẫn nhằm chuyển tải tư tưởng riêng, những phát hiện riêng về cuộc đời và về văn chương.

Vai trò của tình huống luôn được người viết truyện ngắn đé cao.Với Nguyễn Minh Châu, "Đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay và thế là coi như xong một nửa". Tình huống chính là "thứ nước rửa ánh làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng của nhà văn". Chiếc thuyền ngoài xa được triển khai trên hai tình huống chính. Tình huống tự nhận thức là tình huống lớn, bao trùm toàn bộ câu chuyện : Nhân vật Phùng được cử tới vùng biển xa xôi kia để chụp ảnh bổ sung cho bộ ảnh lịch chuyên đề mười hai tháng về biển. Trưởng phòng khi giao nhiệm vụ nói với Phùng : "không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật". Nhờ đó mà Phùng có cơ hội chứng kiến một tình huống khác hết sức bất ngờ và khó tin : một người phụ nữ làng chài thường xuyên bị chồng đánh đập dã man, vẫn cắn răng cam chịu, từ chối lời khuyên đầy thiện chí cúa vị thẩm phán toà án huyện, kiên quyết không rời bỏ người chồng vũ phu. Cách xử sự lạ lùng của người đàn bà gây thắc mắc cho cả Phùng (phóng viên ảnh) lẫn Đẩu (thẩm phán). Kết cục là họ "vỡ ra" được nhận thức mới, đúng hơn, một nhận thức làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của họ (kiểu tình huống này cũng xuất hiện ở nhiều truyện khác của Nguyễn Minh Châu như Bức tranh, Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,…). Do tình huống đặt ra là tình huống tự nhận thức nên cốt truyộn được xây dựng trên nguyên tắc luận đề : sự kiện, sự việc chỉ là phông nền cho quá trình vận động tâm lí dần đến bước ngoặt tư tưởng.

Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật Phùng, người kể chuyện xưng tôi (một hoá thân của Nguyễn Minh Châu ?). Phùng có phẩm chất đáng quý của một nghệ sĩ giàu tâm huyết, tâm hồn tinh tế, thiết tha với cái đẹp. Cảnh thiên nhiên vùng đầm phá buổi sáng, "phẳng lặng và tươi mát" ; cảnh đẩy thuyền ra khơi sôi nổi, náo nhiệt và khoẻ khoắn, cảnh thuyền cá trở về lúc bình minh rực rỡ; cánh biển đông huyền bí, sâu thẳm… đã đem lại những rung động " tuyệt đỉnh", khiến anh vui sướng, hạnh phúc đến mức "tưởng như chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khác trong ngần của tâm hồn". Đằng sau những câu văn khá du dương, hào phóng mĩ từ trong đoạn này, ngầm án một nụ cười hài hước, chế giễu nhẹ nhàng lối tư duy lãng mạn cùa nhiều nghệ sĩ (đó cũng có thể là nụ cười tự trào đầy thâm thuý của Nguyễn Minh Châu). Tự tin và tự mãn, Phùng đã vội thu vào ống kính "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại". Anh ngỡ rằng mình sáng suốt hơn người trưởng phòng, biết gắn cái đẹp thiên nhiên với hình ảnh con người, biết tìm ra sự hài hoà giữa chất thơ của trời biển với vẻ "náo nhiệt" tưng bừng của lao động. Nhưng anh đã lầm. Bước ngoặt trong nhận thức người nghệ sĩ được tác giả khắc hoạ thật sắc sảo qua sự đối lập gay gất giữa "cái – thấy – phút – trước" với "cái – thấy – phút – sau". Mấy cụm từ giản dị mà đầy sức nén của chân lí : "tôi chắc mẩm" (niềm tin có sẵn), "ngay lúc ấy" (đột biến), "bất giác tôi nghe" (hoang mang trước sự thật).

Phùng đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn trên bờ biển (lần thứ hai, thậm chí anh còn nhảy vào can thiệp và bị thương) rồi lại chứng kiến cách chị ta ứng xử tại toà án của chánh án Đẩu. Trong suy nghĩ của Phùng và Đẩu, người đàn bà khốn khổ đáng thương không nên cam chịu bị hành hạ, chắc bà ta sẽ vui vẻ chấp thuận bỏ chồng để được giải thoát khỏi đòn roi. Ngờ đâu cả thiện chí lẫn luật pháp đều bất lực : người đàn bà khi mới nghe vị thẩm phán thuyết phục li dị chồng đã "chắp tay lại vái lia lịa : – Con lạy quý toà…". Trước cảnh này, Phùng kinh ngạc cao độ và cảm thấy bức bối : "gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá" vì "không thể nào hiểu được" thái độ cam chịu lạ lùng ấy. Ở đây diễn ra một sự va chạm gay gắt giữa những điều đã mặc định về con người với thực tế sống động của hiện thực. Phùng và Đẩu đều tin rằng mình đúng : họ đã bảo vệ bà ta bằng cả thiện chí lẫn luật pháp. Họ đinh ninh chồng bà ta là kẻ xấu xa, bỏ lão là giải pháp tốt nhất. Chỉ có điều người đàn bà lam lũ ấy giống như một bí mật mà họ chưa bao giờ biết. Sự thay đổi hoàn toàn tư thế và lối xưng hô, những câu nói chất phác mà "thấu tình đạt lí" của bà làm cả Phùng lẫn Đẩu bối rối "những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi…". Một lần nữa cách nhìn đầy định kiến và dơn giản "va" phải cái trí khôn của đời sống. Người đàn bà thất học lại có tư cách giảng giải cho hai vị trí thức về những nghịch lí mà con người phải chấp nhận khi nó bị cầm tù trong hoàn cảnh đói nghèo cùng cực. Hoá ra cuộc sống vốn đầy nghịch lí mà cái nhìn chủ quan duy ý chí không bao giờ thấy hết. Pháp luật công bằng, lòng tốt vô tư đều chưa đủ hoá giải những nghịch lí ấy. Nguyễn Minh Châu thật sâu sắc khi phát hiện sự cam chịu của người đàn bà là một phẩm chất, là cái đẹp đáng giá nhất, vì nó cần thiết nhất cho những người dân hàng chài cơ cực kia khi xã hội chưa có một giải pháp thực sự hiệu quả để thay đổi số phận họ.

Người đàn bà thất học mà không tăm tối. Thái độ nhẫn nhịn là kết quả của bao tình cảm vị tha, thánh thiện : "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được !…". Vậy là người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để đảm bảo cho sự tồn tại của cái gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước vốn đầy rẫy bất trắc. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời cứa người phụ nữ ở câu chuyện này phát lộ dưới hình thức bất ngờ nhất và cũng cảm động nhất. Nó cho bà ta can đám để chịu dựng những trận đòn tàn bạo của chồng (khi bị chồng đánh bà không hé kêu khóc hay chống cự), nhưng lại khiến bà "đau đớn", "xấu hổ, nhục nhã" khi biết mình vô tình làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại (bà "mếu máo" gọi tên Phác, "ôm chầm lấy nó", "chắp tay vái lấy vái để" đứa con, bà cũng dã khóc ở toà án khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác).

Nguyễn Minh Châu đã di chuyển điểm nhìn từ Phùng sang Đẩu rồi bất ngờ "trao" cho người đàn bà và chính cái người mẹ hàng chài thô kệch, mặt rỗ xấu xí, đầy vẻ lam lũ, cam chịu ấy lại là người sắc sảo, hiểu đời hơn hẳn hai vị trí thức. Chánh án Đẩu và phóng viên nhiếp ảnh Phùng đã từng kinh qua chiến tranh, đi nhiều thấy nhiều mà hoá ra vẫn nông cạn, hời hợt trước hiện thực khắc nghiệt của gia đình bà và những người dân chài khác. Cuộc sống được Đẩu nhìn bằng sự rành rẽ, công bằng của luật pháp, Phùng nhìn bằng con mắt nghệ sĩ. Cá hai đều có sẵn lòng tốt và thiện chí với cuộc đời. Chỉ có điều các anh quen tư duy một chiều về cuộc đời (chẳng hạn, câu hỏi "như lạc đề" của Phùng : "Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không ?" hay cái thắc mắc rất ngây thơ của Đẩu : "Vậy sao không lên bờ mà ở ?") nên chỉ thấy được những gì là tất yếu, hợp lí. Người đàn bà trái lại, từ số phận mình đã buộc các anh phải đặt đời sống vào cái nhìn nhiều chiều để nhận ra vô vàn nghịch lí : bãi xe tăng bị bốc cháy (chứng tích về chiến công anh hùng trong chiến đấu) là nơi người đàn bà thường xuyên bị đánh đập, còn những đứa trẻ thì đói khát và thất học (bi kịch đói nghèo chưa cách gì chấm dứt), thiếu nữ mảnh dẻ duyên dáng "như nàng tiên cá" lại "được tách ra từ da thịt một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ", người mẹ yêu con, cố che giấu sự thật để tránh cho con khỏi đau lòng, không ngờ lại làm nó tức giận đến mù quáng,… Chính những lời giãi bày chất phác, dè dặt của người đàn bà dã dần dần "mở mắt" cho Phùng và Đẩu. Tất nhiên việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc không dễ dàng gì. Làm sao hai vị cựu chiến binh của một thời đánh giặc lừng lẫy có thể thấm thìa được ngay bao nhiêu nông nỗi yêu thương, xa xót, đắng cay, hờn tủi, bao nhiêu thấu hiểu độ lượng trong giọng nói đứt quãng của bà ta : "Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu […]. Giá mà lão uống rượu […] thì tôi còn đỡ khổ […]. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão […] đưa tôi lên bờ mà đánh […]”. Phùng và Đẩu đã “cùng một lúc thốt lên” : “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Có lẽ họ chỉ thực sự “tâm phục khẩu phục” khi phát hiện cái sức mạnh nội tâm kì lạ nâng đỡ người đàn bà : “Lần đầu tiên trên khuôn mặt xẩu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ […]. Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.

Nguyễn Minh Châu đã thật "cao tay" khi làm cuộc hoán đổi vị thế giữa Phùng, Đẩu với người đàn bà – cuộc hoán đổi để xác lập quan niệm dân chủ về con người. Tính cách đầy mâu thuẫn của người phụ nữ hàng chài thể hiện tư tưởng nhân bản sâu sắc của nhà văn, hiện thực hoá ý định của ông khi sáng tác truyện ngắn này : "Con người sống trong xã hội, sống giữa cộng đồng đã từng tồn tại từ lâu và còn tồn tại mãi nhưng họ phải chịu biết bao đau đớn để cho người và người được bên nhau, gắn bó với nhau trong cái quần thể xã hội đầy mâu thuẫn trên chiếc thuyên nọ… Không phải lúc nào con người cũng đấu tranh với nhau mà nhiều khi phải chịu đựng lẫn nhau. Những con người lao động và lương thiện hết đời này sang đời khác đã chịu biết bao nhiêu điểu đau khổ bất công để sống nuôi nấng con cái, làm cho đời sống bất diệt". Tình yêu thương con người ở Nguyễn Minh Châu lúc nào cũng nặng trĩu những suy tư se xót nên tình cảm nhân đạo của ông thường nghiêng về phía những thân phân bé nhỏ, nhiều đau khổ và ông đặc biệt nhạy cảm với những vẻ đẹp thầm lặng mà vững bền – những vẻ đẹp mang gương mặt phụ nữ (như Liên trong Bến quê, Thai trong cỏ lau,…).

Nguyễn Minh Châu có những câu văn giản dị như lời nói thường, không một chút "làm văn" mà đầy dư ba. Câu văn sau đây là một ví dụ – đấy là câu Phùng hỏi người đàn bà : "Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?". Vâng! Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn như thế mà nói đến niềm vui liệu có xa xỉ quá không ? Nhưng mấy ai đã hiểu sự tận tuy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với họ. Nghe người đàn bà hàng chài nói về niềm vui, Đẩu như "bừng ngộ" : "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ". Đến đây người kể chuyện (Phùng) đã nhập hẳn vào dòng tâm tư của Đẩu, sự giác ngộ của Đẩu cũng chính là sự giác ngộ của anh. Hành trình tự nhận thức của cả hai luôn có sự song trùng. Nhưng qua Phùng – người phóng viên nhiếp ảnh, Nguyễn Minh Châu còn thực hiện một cuộc "tự vấn" của văn chương : giữa cuộc sống cơm áo nhiều hệ luỵ, văn chương chọn cách ứng xử nào ? "Chiếc thuyền ngoài xa" rất khác với nó khi đã cập bờ. Nghệ thuật tiếp cận hiện thực thế nào để không bỏ quên số phận con người ? Nhan đề truyện rõ ràng là một ẩn dụ sâu sắc (nó gợi nhớ các nhan đề như Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê, Bức tranh, cỏ lau,…), một câu hỏi bỏ ngỏ cho những ai muốn chọn văn chương nghệ thuật để bày tỏ tình yêu con người. Câu hỏi này ám ảnh tới mức dù bức ảnh lịch năm đó của Phùng chỉ có hai màu đen trắng mà sau này mỗi lần ngắm nó Phùng cứ thấy hiện về cái màn sương màu hồng (lãng mạn) như đối lập với dáng đi chậm rãi, vững chắc của người đàn bà trên cát (hiện thực). Một lời nhắc nhở hay một niềm tin sâu xa vào sứ mệnh cao quý của người nghệ sĩ ? Chắc chắn rằng, với Nguyễn Minh Châu, với truyện ngắn này, nghệ sĩ không có quyền nhìn sự vật một cách giản đơn, dễ dãi mà phải đào xới vào những tầng sâu đời sống để làm lộ ra những gì có khả năng đánh thức tình yêu thương con người.

Tình huống truyện độc đáo, kết hợp với nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách – số phận đã giúp nhà văn giãi bày nỗi băn khoăn, trăn trở về tính phức tạp đa chiều của cuộc sống, về bao nhọc nhằn còn đè nặng lên số phận con người, về mối quan hệ máu thịt giữa nghệ thuật và hiện thực. Khát vọng đổi mới văn chương bằng việc đi tìm một quan niệm chân thật hơn, hợp lí hơn về con người dựa trên nền tảng triết học nhân bản qua giọng văn thấm thìa chiêm nghiệm, qua cái nhìn dân chủ hoá của người trần thuật,… đã trở thành nhu cầu tự vấn mạnh mẽ, trung thực, đủ sức khẳng định tư cách "người mở đường" cho công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Minh Châu.

Vũ Hường tổng hợp

0