16/01/2018, 13:36

Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu – Văn mẫu lớp 12

Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu – Văn mẫu lớp 12 Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 1 Truyện ngắn "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, hình ảnh nhân vật Tnú mang vẻ mĩ học sâu sắc và dạt dào chất sử thi. Tnú đại diện cho cả cộng đồng, ...

Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu – Văn mẫu lớp 12

Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 1

Truyện ngắn "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, hình ảnh nhân vật Tnú mang vẻ mĩ học sâu sắc và dạt dào chất sử thi. Tnú đại diện cho cả cộng đồng, sống chết với cộng đồng, gắn bó mật thiết, chặt chẽ với số phận lich sử của cộng đồng.

Nguyễn Trung Thành là một nhà văn giàu tài năng. Ông có những thành công nổi bật ngay từ sáng tác đầu tay (Đất nước đứng lên, giải nhất về tiểu thuyết, giải thưởng của đội văn nghệ Việt Nam trao tặng 1954 – 1955). Trong cả hai cuộc kháng chiến của dân tộc ông gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên. Nhà văn sống hòa đồng, hiểu biết nhiều về lòng khát khao độc lập, tự do, tinh thần cách mạng quật khởi, bất khuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công của truyện ngắn Rừng xà nu được ông sáng tác vòa mùa hè 1954, khi đế quốc Mĩ tấn công quyết liệt miền Nam nước ta. Tác phẩm này đã đạt giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu 1965 và được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Tnú là hình tượng nhân vật được Nguyễn Trung Thành xây dựng rất thành công trong thiên truyện. 

Trước hết, ta thấy Tnú là một con người rất gắn bó với cm , gan góc, dũng cảm, linh hoạt, táo bạo và trung thực. Ngay từ thuở nhỏ, Tnú đã dám một mình vào rừng tiếp tế cho anh Quyết, cán bộ cm mà không sợ bị bắt treo cổ lên cây vả đầu làng hay bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng như anh Xút, bà Nhan. Còn khi học chữ thua Mai thì “nổi nóng, đập bể cái bảng nứa trước mặt Mai và anh Quyết, bỏ ra suối ngồi một mình suốt ngày”, “cầm hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Khi bị giặc vây các ngả đường, Tnú “leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi”. Qua sông, “không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên một nước, cưỡi lên thác bang bang như một con cá kình” vì nghĩ rằng: “qua chỗ nước êm, thằng Mĩ – Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Một lần, ngậm vào miệng cái thư định vượt thác thì bị giặc bắt phục kích, Tnú linh hoạt, nhanh trí nuốt luôn cái thư. Khi bị giặc bắt, quấn giẻ lên mười đầu ngón tay, lấy lửa đốt, Tnú không kêu lên một tiếng nào mà còn trợn mắt nhìn kẻ thù trừng trừng: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chat đầu lưỡi. Răng anh cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên (…) Tnú không thèm, không thể kêu van”. Mặc dù mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt và phải chứng kiến tận mắt kẻ thù giết hại vợ con nhưng Tnú vẫn vượt lên mọi đau đớn, bi kịch cá nhân hang hái gia nhập bộ đội Giải phóng để trả thù cho quê hương và những người thân.

Mặt khác, Tnú là một con người có tính kỉ luật cao. Mặc dù ba năm đi lực lượng vũ trang của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phải xa quê hương, xa mái ấm gia đình, xa người thâ, xa bạn bè, nỗi nhớ choán đầy cả cõi lòng nhưng anh không tự ý về thăm làng. Anh xin giấy phép của cấp trên, có chữ kí của người chỉ huy, trung thực trình cho chị Dít và dân làng kiểm tra trong chuyến về phép. Sau một đêm nghỉ phép, anh trở lại đơn vị đúng qui định, gửi lại sau lưng một khoảng trời nhung nhớ, luyến lưu.

Hơn nữa, Tnú là một con người giàu tình yêu thương. Anh yêu bản làng tha thiết. Anh xúc động khi trở về thăm làng. Anh vừa đi theo sự hướng dẫn tận tình của bé Heng, vừa bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm ngày trước. Gặp lại môt cây lớn ngã ngang đường, anh nhớ lại lúc cây này chưa ngã, anh đã gặp Mai lần đầu. Chính Mai đã bày tỏ tình yêu chân thành, thắm thiết đối với anh. Mai cầm hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn, “ứa nước mắt khóc, không phải như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa yêu thương. Kỉ niệm đó cắt vào lòng anh như một nhát dao cứa. Anh trợn mắt lên, như những lúc bị tra tấn đau quá trước đây”. Anh thổn thức nỗi lòng khi nhận ra tiếng chày dồn dập của làng anh – “tiếng chày chuyên cần, rỗn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa, của Mai, của Dít”. Tiếng chày ấy chính là trung tâm nỗi nhớ day dứt, nhớ mênh mang khiến ngực đập liên hồi dù cố giữ bình tĩnh và “ chân cứ vấp mãi mấy cái rễ cây ở chỗ quẹo vào làng”. Còn khi cụ Mết dẫn anh ra mái nước đầu làng, đu đã rửa ở suối rồi, nhưng anh vẫn xúc động để cho vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước. Thêm vào đó, anh là người yêu thương vợ con da diết. Không đi Kon Tum mua vải được, anh tự tay xé đôi tấm đồ (mảnh vải đắp) duy nhất của mình ra để làm tấm choàng cho Mai địu con. Trong cơn bi kịch, nấp ở gốc cây cạnh máng nước đầu làng, nhìn thấy cảnh kẻ thù hành hạ vợ con một cách man rợ, thú tính, lòng anh quặn thắt, tái tê. Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hề hay biết. Rồi anh bỏ gốc cây, “chồm dậy”, “hét dữ dội”, “nhảy xổ vào bọn lính”. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Anh nguyền rủa: “Đồ ăn thịt người, tau đây! Tnú đây!…” nhưng anh đã không cứu được vợ con thoát khỏi bàn tay hung bạo, đẫm máu của bọn giặc dữ. Đó là nỗi xót xa, đau đớn, cay đắng nhất của một người chồng, một người cha. Hơn nữa, yêu thương mọi người bằng tất cả tấm lòng mình: vì lẽ đó nên Tnú vừa về đến làng, dân làng từ trẻ đến già như lũ trẻ, bé Heng, các cô gái, anh Pre, chị Blom, bà cụ Leng, bà già Prôi, ông già Tâng, cụ Mết đều ré lên, reo lên, vồn vã, vây chặt quang Tnú mừng rỡ không xiết.

Đặc biệt, Tnú là một con người có lòng căm thù giặc sâu sắc. Chứng kiến cảnh người thân bị hành hạ tàn nhẫn, ngọn lửa căm thù trong lòng Tnú bốc cháy ngùn ngụt. Hai con mắt của anh như hai cục lửa lớn. Khi bị giặc dùng nhục hình, anh thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn! Sau này, anh dứt khoát, lạnh lùng trừng trị đích đáng kẻ đã gây tàn tật cho mình. “Anh bóp chết kẻ thù bằng chính hai bàn tay cụt của mình”.

Nhìn chung, cuộc đời và vẻ đẹp riêng của nhân vật Tnú được kết tụ lại trong hai bàn tay ấn tượng: bàn tay hận thù và bàn tay rửa thù.

Có thể nói, Tnú là hình tượng nhân vật mang ý nghĩa điển hình cho số phận và con đường cách mạng của dân làng Xô Man. Bi kịch của cuộc đời Tnú không phải là bi kịch riêng của một cá nhân. Cả làng Xô Man có không ít người có số phận cay đắng, đau đớn, chua xót, ngậm ngùi, bất hạnh như nhân vật Tnú. Vậy nên, bi kịch cuộc đời Tnú mang ý nghĩa điển hình. Vả lại, Tnú là một anh hùng. Cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, bé Heng cũng là những anh hùng. Cả làng Xô Man anh hùng. Do đó, Tnú là biểu tượng cao đẹp cho những phẩm chất anh hùng, hiên ngang, bất khuất, kiên cường, dũng cảm của núi rừng Tây Nguyên. Hơn thế nữa, con đường cách mạng của nhân vật Tnú gắn liền với con đường cách mạng do anh Quyết làm đại diện, gắn liền với con đường cách mạng của dân làng Xô Man, gắn liền với con đường đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tuyệt vời của Đảng ta. Vì vậy, hành động cách mạng của Tnú có sức thôi thúc, ảnh hưởng đến toàn bộ dân làng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa trên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.

Tóm lại, nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một hình tượng mang vẻ mĩ học sâu sắc và dạt dào chất sử thi. Tnú chính là nhân vật điển hình đại diện cho cả cộng đồng, sống chết với cộng đồng, gắn bó mật thiết, chặt chẽ với số phận lich sử của cộng đồng. Tnú xứng đáng là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 2

Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài miền núi, đề tài chiến tranh, cách mạng. Truyện ngắn này đã đạt giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Rừng xà nu phản ánh cuộc đấu tranh của đồng bào Tây Nguyên chống Mĩ Ngụy, làm ngời lên lòng yêu nước bất khuất và sức sống kiên cường của người dân Tây Nguyên nói riêng, đồng bào miền Nam nói chung. Tác phẩm Nguyễn Trung Thành nổi bật ở cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong văn học giai đoạn 1945 – 1975. Nổi bật lên trong truyện ngăn Rừng xà nu là nhân vật Tnú.

Tnú là hình tượng điển hình cho tính cách người dân Tây Nguyên, điển hình cho con đường đẩu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ một chân lí thời đại đánh Mĩ: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Qua hình tượng nhân vật Tnú, người đọc còn thấy được nghệ thuật giàu chất sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu.

Ở Tnú vừa có những tính cách đặc trưng riêng, vừa điển hình cho tính cách Tây Nguyên Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, cái chất Tây Nguyên này đã thấm sâu vào Tnú từ khi còn nhỏ. Lúc Tnú và Mai dẫn đường tiếp tế lương thực cho cán bộ, được anh Quyết dạy cho cái chữ. Học chữ thua Mai. Tnú đã đập vỡ bảng, lấy đá đập vào chảy máu để đưa được cái chữ vào trong đầu. Điều đó chứng tỏ Tnú là một cậu bé có nghị lực và gan góc, kiên cường. Sự gan góc, dũng cảm của cậu bé Tây Nguyên này càng bộc lộ khi đối diện với kẻ thù. Làm liên lạc mang tài liệu cho cán bộ, gặp địch Tnú nuốt luôn tài liệu. Khi kẻ thù tra tấn đánh đập anh, chúng hỏi cộng sản đâu, Tnú dõng dạc đặt tay lên bụng trả lời "Ở đây này”.

Ở nhân vật Tnú, hình tượng đôi bàn tay gây một ấn tượng sâu sắc, hình tượng hai bàn tay là hình tượng mang tính cách, hai bàn tay khi còn lành lặn là đôi bàn tay nghĩa tình. Đôi bàn tay ấy còn biết cầm phấn học cái chữ anh Quyết dạy cho, cũng đôi bàn tay ấy đã lấy đá ghè đầu tự trừng phạt mình khi không học được cái chữ. Khi Tnú thoát ngục Kon Tum trở về, Mai đón anh ở tận đầu làng, chị cầm đôi bàn tay Tnú mà rưng rưng nước mắt. Đôi bàn tay Tnú bị giặc đốt giờ mỗi ngón chỉ còn hai đốt, vĩnh viễn không bao giờ mọc lại. Nhưng với đôi bàn tay cụt đốt ấy Tnú vẫn cầm vũ khí lên đường chiến đấu. Đó là đôi bàn tay mang sức mạnh căm hờn.

Trong cuộc sống cũng như chiến đấu, Tnú có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng.

Tham gia lực lượng đấu tranh đánh Mĩ, Tnú rất nhớ quê hương nhưng anh chỉ về thăm quê khi được phép của cấp trên. Bằng rừng, lội suối qua bao hiểm nguy Tnú mới về đến làng nhưng anh cũng chỉ ở lại quê đúng một đêm rồi lại lên đường về đơn vị.

Khi Tnú bị giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú vẫn không kêu nửa lời: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở ngực máu anh mặn chát ở đầu lưỡi, rằng anh cắn nát môi anh rồi . Tnú cắn răng chịu đựng bởi anh tâm niệm lời dặn anh Quyết, lời dặn của Đảng “người cộng sản không thèm kêu van”. Lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của Tnú cũng giống như lòng trung thành của cụ Mết – người già bản vẫn thường dặn con cháu: "Đảng còn, sông núi này còn". Từ lòng trung thành đối với cách mạng Tnú đã lên đường chiến đấu, mang theo niềm vui, sự tin tưởng vào thắng lợi cách mạng.

Tnú là người giàu lòng yêu thương nhưng cũng cháy bỏng căm hờn. Yêu thương hay căm hờn đều mang tính cách Tây Nguyên.

Tnú là người bạn nghĩa tình khi Mai còn nhỏ, người yêu thủy chung của Mai khi đà trưởng thành và là người chồng, người cha đầy trách nhiệm. Ke thù không bắt được Tnú, chúng đã bắt Mai và đứa con nhỏ đánh đập, hành hạ dã man để lung lạc tinh thần Tnú. Chứng kiên cảnh Mai và đứa con nhỏ bị dùng gậy sắt đánh đập dã man, Tnú xông ra cứu mặc dù trong tay không có vũ khí. Động lực nào đã thôi thúc Tnú để anh xông vào kẻ thù với tất cả sức mạnh rừng thiêng. Động lực ghê gớm chỉ xuất phát từ một trái tim cháy bỏng yêu thương và căm hờn. Tnú cũng là người con nghĩa tình của buôn làng. Anh lớn lên trong sự yêu thương đùm bọc của người dân Strá. Tnú gắn bó tha thiết với mảnh đất quê hương với những cánh rừng xà nu. Anh thuộc lòng từng con đường mòn, từng con suối nhỏ. Anh lên đường chiến đẩu để giải phóng quê hương. Tnú xứng đáng là tấm gương chung để cụ Mết giáo dục con cháu.

Lòng căm thù của Tnú cũng mang tính cách Tây Nguyên. Tnú mang trong mình ba mối thù lớn: mối thù bản thân, gia đình và buôn làng. Lưng Tnú dọc ngang những vết dao chém, mười ngón tay anh bị đốt, là những chứng tích tội ác của kẻ thù mà anh mang theo suốt đời. Vợ con anh bị chết thảm khốc dưới cây gậy sắt của giặc, là mối thù lớn của gia đình mà anh không bao giờ quên. Những cánh rừng xà nu bị giặc tàn phá, những người dân vô tội làng Xô Man bị giặc sát hại là mối thù mà anh không đội trời chung với Mĩ – Ngụy. Mang trong tim ba mối thù lớn ấy, với đôi bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt anh vẫn cầm vũ khí đi tìm những thằng Dục để trả thù. Đối với Tnú đã là giặc thì thằng nào cũng tàn ác như thằng Dục. Cuối cùng Tnú đã giết chết tên chỉ huy đồn địch nay trong hầm cố thủ của hắn. Anh trừng phạt kẻ thù không phải bằng súng, bằng dao mà bằng chính đôi bàn tay trừng phạt, đôi bàn tay quả báo. Kẻ thù đã gây tội ác thì chúng phải chết bằng chính chứng tích mà chúng gây nên. Tnú không chỉ điển hình cho tính cách Tây Nguyên mà còn điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên. Làm sáng tỏ chân lí thời đại đánh Mĩ: “chúng nó đã câm súng mình phải cầm giáo”.

Bi kịch của Tnú là bi kịch cá nhân nhưng đồng thời là bi kịch mang ý nghĩa điển hình cho con đường đấu trành đến với cách mạng của người dân làng Xô Man. Người dân Strá cũng phải chịu bao đau thương như Tnú. Bà Nhan bị chặt đầu, cắt tóc, bêu đầu súng. Anh Xút bị treo cổ lên cây và đầu làng. Mảnh đất và cánh rừng xà nu bị đạn pháo giặc tàn phá, cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Bi kịch Tnú khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người dân làng Xô Man khi chưa giác ngộ chân lí: “Chúng nó cầm súng mình cầm giáo” (lời cụ Mết).

Tnú hội tụ trong mình sức mạnh cá nhân, sức mạnh thể chất và cả sức mạnh tinh thần. Anh cường tráng như một cây xà nu lớn. Chứa trong lồng ngực anh là sức mạnh phi thường, hoang dại của núi rừng Tây Nguyên. Chảy trong huyết quản anh là dòng máu anh hùng của Tây Nguyên bất khuất có từ thời Đăm San. Tnú gan góc, dũng cảm, không có sức mạnh tàn bạo nào có thể khuất phục được anh, dù sự tàn bạo ấy hiện hình thành lưỡi dao, thành mũi súng hay ngọn lửa…

Với sức mạnh cá nhân to lớn nhưng khi Tnú tay không trước kẻ thù tàn bạo có vũ khí thì anh vẫn thất bại đau đớn. Vợ con anh vẫn chết một cách thảm khốc. Anh không cứu được Mai và đứa con thơ, bản thân anh bị giặc bắt, bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Lửa đốt bàn tay Tnú lại là lửa chảy từ nhựa xà nu. Cái thứ nhựa xà nu hiền lành, cái khói thơm ngạt ngào như đọng lắng quê hương ấy lại trở thành ngọn lửa hủy diệt chính đôi bàn tay đã vun trồng nên rừng xà nu, đôi bàn tay ấy đã từng chăm sóc cho cây xà nu. Đây là bài học xót xa, đau đớn khi người dân không cầm được vũ khí trước kẻ thù tàn bạo.

Tnú được cứu khi người dân Xô Man cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Sau bao ngày vào rừng mài dao, mài rựa rèn giáo, rèn mác, sau bao ngày chuẩn bị vũ khí người dân Strá đã nhất tế nổi dậy, đi đầu là cụ Mất. Với sức mạnh của lòng yêu quê hương đất nước, họ đã chém gục thằng Dục, giết cả tiểu đội lính ác ôn. dập lửa cứu đôi bàn tay Tnú và giải cứu cho anh. Người dân làng Xô Man đã nổi dậy với cả sức mạnh tinh thần và sức mạnh võ trang để giải phóng buôn làng. Con đường đấu tranh của Tnú từ sự bột phát đến tham gia lực lượng vũ trang đánh Mĩ là con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của người dân làng Xô Man. Con đường ấy chính là phải vũ trang đứng lên chiến đấu tiêu diệt kẻ thù dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nếu truyện ngắn Rừng xà nu đậm chất dân tộc và chất sử thi thì hình tượng nhân vật Tnú là sự minh chứng cho đặc điểm nghệ thuật này. Tnú mang tính cách Tây Nguyên. Điển hình cho tính cách Tây Nguyên đó chính là tính cách của những người trung thực, gan góc, dũng cảm. Những con người giàu lòng yêu thương mà cũng cháy bỏng căm hờn. Những con người có lòng tin tuyệt đối vào cách mạng. Để khắc hoạ tính cách nhân vật Tnú, nhà văn chú ý miêu tả ngôn ngữ đối thoại thẳng thắn, ngắn gọn, chú ý miêu tả mạnh mẽ quyết liệt. Nếu cụ Mết có khí thế ào ạt như thác lũ Tây Nguyên thì Tnú có tinh thần kiên cường, bất khuất, tư thế vững chãi như núi rừng Tây Nguyên.

Cuộc nổi dậy của người dân Xô Man và cuộc đời bi tráng của Tnú được kể lại trong đêm anh về thăm làng. Duới mái nhà ưng (nhà rông), những người dân làng Xô Man quây quần bên bếp lửa trong không khí một đêm thiêng liêng, bên bếp lửa bập bùng lời người già bản cất lên: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tao chết rồi, phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Lời kể của cụ Mết trầm hùng vang lên như lời phán truyền của lịch sử. Nó gợi lại không khí của những lời kê “khan” rất quen thuộc ở người dân Tây Nguyên, những bài kê khan như hát suốt đêm nói về bộ tộc, bộ lạc, nói về chiến công của những người anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man là câu chuyện của hiện tại nhưng qua lời kể khan của cụ Mết thì câu chuyện của hiện tại đã mang không khí màu sắc lịch sử. Chính điều này đã tạo nên một khoảng cách sử thi, đã tạo nên sự chiêm ngưỡng mang tính chất sử thi. Nhân vật Tnú qua lời kê khan của cụ Mết làm người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của những người anh hùng, dũng sĩ của bản trường ca, các bản sử thi Tây Nguyên.

Tiếp theo hình tượng nhân vật anh hùng Núp trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên, Nguyễn Trung Thành (một bút danh khác của Nguyên Ngọc) đã xây dựng thành công nhân vật Tnú – một nhân vật mang tính cách điển hình cho Tây Nguyên bất khuất. Với Đất nước đúng lên viết trước đó và Rừng xà nụ viết trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, Nguyên Ngọc thuộc số nhà văn đầu tiên đã mở cánh cửa văn học vào Tây Nguyên. Và trên mảnh đất này ông đã xây dựng được những lâu đài nghệ thuật trong kí ức của người đọc và cho đến hôm nay Nguyên Ngọc vẫn là nhà văn viết đúng nhất, hay nhất về Tây Nguyên.

Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 3

Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rung Tây Nguyên.Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ.Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú.Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.

Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình ảnh một Tnú trước và sau khi đúng lên cầm vũ khí.Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm.Cậu thất sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nứơc chảy xiết.Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái chữ không sáng tạo bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”.Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường.Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm.

Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng.Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.

Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả 2 đều ko sống được.Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh.Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt….không mọc lại được”.Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao.Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên.Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man.Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dướ lưỡi gươm và nòng súng tàn bạo của chúng.Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man khoong cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt.Họ đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình .Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu.Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng- ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù.Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng het ấy như khơi dậy cao đọ lòng căm thù giặc của cả buôn làng.Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng.Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động : “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman âo ào rung động và lửa cháy khắp rừng.Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả 1 cộng đồng, dân tộc.Dường như trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên”.

Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắ của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh.Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác.Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục.Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi”.Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay Tnú- đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.

Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không sáng dạ bằng Mai.Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành vớ cách mạng.Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại.Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được…..cho nên Tnú muốn dung đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù.Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất , cho sức sông mãnh liệt của Tnú và người dân làng Xôman.Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không cso cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.

Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên.Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng them hiểu và thêm trân trọng con người Tây Nguyên vớ biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.

Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 4

Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người đọc có ấn tượng mạnh mẽ song trùng là vẻ đẹp của cánh rừng và những người anh hùng trên vùng đất Tây Nguyên huyền thoại. Rừng xà nu được khắc họa từ đầu đến cuối tác phẩm vừa mang nét tự nhiên, vừa tượng cho biết bao tính cách của con người. Trong đó, nổi bật là nhân vật Tnu. Tnu cũng xuất hiện ngay từ đầu rồi đi suốt văn bản, song hành, đầy biến động, để lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc như rừng xà nu vậy. Một rừng cây – một đời người. Xà nu – loại cây thông chỉ có ở núi rừng nơi đây không chỉ “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng” mà còn góp phần sinh ra, nuôi lớn, bảo vệ và hóa thân vào tinh thần, ý chí, vào sức mạnh anh hùng của mỗi người dân, và đặc biệt là Tnu. Tnu là người con của dân làng cũng là người con của rừng xà nu.

Tnu mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Nhận xét về Tnu, cụ Mết nói “Nó là người Stra mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch trong như nước suối làng ta”. Như vậy, khi còn nhỏ, số phận Tnu đã bất hạnh. Số phận bất hạnh nhưng tâm hồn anh trong sáng, dịu dàng vì tiếp nhận mạch nguồn của dòng suối quê hương. Từ đó, Tnu lớn lên trong tình thương yêu của dân làng, trong sự chở che của rừng núi. Cũng từ đó, Tnu tích hợp được trong trái tim, trong cõi lòng mình biết bao tình cảm yêu thương.

Với cánh rừng xà nu, từ đơn vị trở về làng, Tnu đứng hồi lâu ngắm nhìn, thấy hàng vạn cây xà nu “không cây nào không bị bom đạn kẻ thù bắn phá”. Rồi anh phát hiện ra vẻ đẹp của rừng cây, so sánh cây xà nu ở đất quê mình với loài cây khác, nghiệm ra rằng “rừng xa nu sinh sôi nảy nở khỏe hơn, ham ánh sáng mặt trời hơn”. Tnu như nhập hồn vào rừng cây, cảm nhận rừng xà nu như một sinh thể kì diệu, bất khuất, bất diệt. Thăm làng chỉ được một đêm, sáng hôm sau trước khi lên đường, Tnu lại đứng lặng hồi lâu ngắm rừng xà nu, lòng bang khuâng, bịn rịn như đối với người thân. Với Tnu, rừng cây, mảnh đất quê hương gắn bó bởi biết bao kỉ niệm lúc êm đềm, khi dữ dội, rừng xà nu là một phần máu thịt của anh. Với người dân làng Xô Man, Tnu coi như những người ruột thịt. Gặp cụ Mết sau ba năm xa cách, Tnu bồi hồi sung sướng “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa…ngực căng như một cây xà nu lớn”. Tình yêu quê hương chan hòa trog tình thương mến những con người của quê hương, tình làng nghĩa xóm trong tâm hồn Tnu mặn mà, sâu nặng như tình cảm cha me, con cái trong một gia đình. Với vợ con, Tnu đặc biệt gắn bó, yêu thương. Anh xé tấm đồ của mình làm áo choàng ủ ấm cho con. Khi vợ con bị bọn ác ôn đánh đập, Tnu không sợ chết mà lao vào giữa bọn dã thú che chở và cứu vợ con “Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”.

Từ tình yêu thương, Tnu đến với cách mạng, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnu đã xung phong vào rừng nuôi cán bộ, được cán bộ dạy chữ và giác ngộ cách mạng. Rừng núi quê hương đã giúp Tnu học hành. Than củi trộn với nhựa xà nu cho anh màu đen sơn bảng, đá trắng ở núi Ngọc Linh cho anh phấn viết. Được anh Quyết giao nhiệm vụ và huấn luyện công tác lien tục, Tnu đã lớn lên từng ngày, từng ngày trong rừng, trong tình yêu thương của anh Quyết. Anh Quyết hy sinh. Thương anh bao nhiêu, Tnu ghi nhớ và nguyện làm theo lời anh bấy nhiêu. Trong giây phút khốc liệt nhất, mười đầu ngón tay bị giặc đốt cháy như mười ngọn đuốc, Tnu vẫn nhớ lời anh Quyết “Người cộng sản không them kêu van” và tự nhủ “Tnu không them, không them kêu van”. Đau đớn đến tột cùng, căm hờn đến ứa máu, đối mặt với cái chết, đối mặt với kẻ thù, người thanh niên cách mạng ấy luôn nghĩ tới cán bộ, nghĩ tới cách mạng và luôn giữ vững lòng trung thành, giữ vững tư thế hiên ngang, bất khuất của người chiến sĩ cộng sản, người anh hùng nhân dân. Tình cảm yêu thương, lòng trung thành và tư thế của người cách mạng chính là sức mạnh tinh thần đã tôi luyện, hun đúc trong Tnu sức mạnh, ý chí gang thép để anh ngẩng đầu cao trước kẻ thù.

Khi đối diện với những kẻ cướp nước và bán nước, Tnu là hiện thân của một cây xà nu cường tráng, của rừng xà nu hiên ngang, bất khuất. Lần thứ nhất bị giặc bắt, giam cầm, tra khảo suốt ba năm, Tnu vẫn không khai, vẫn giữ trọn phẩm chất cách mạng. Rồi anh vượt ngục trở về làng. Vừa về làng, Tnu đã tham gia lập đội xung kích, tự nguyện đi bộ ba ngày lên núi Ngọc Linh gùi đá mài về mài gươm giáo, chiến đấu bảo vệ xóm làng. Trong tâm hồn anh, luôn cháy bỏng ngọn lửa cách mạng, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Lần thứ hai, khi xông ra cứu vợ con, Tnu lại bị bắt. Lần này anh phải đối mặt với bọn ác ôn dã thú, đối mặt với cái chết dữ dằn. Mười ngón tay anh bị đốt bốc lửa rừng rực. Kẻ thù biến nhựa và cây xà nu thân thương thành ngọn lửa bạo tàn thiêu đốt anh. Nỗi đau thể xác biến thành lòng căm thù. Ngọn lửa mà bọn giặc ác ôn thiêu đốt anh trở thành ngọn lửa căm thù nung đỏ trái tim anh, thành lửa cách mạng cháy sáng trong tâm hồn anh. Không thấy ngọn lửa ở ngón tay, Tnu nghe tiếng lửa trong lồng ngực. Nhờ đó, Tnu vượt qua giây phút yếu mềm. Anh không kêu van mà nhớ tới anh Quyết, nhớ tới cách mạng để tự động viên mình chiến thắng chính mình. Trong giây phút ấy, Tnu thực sự là hóa thân của cây xà nu cường tráng, đúng như cụ Mết nói “Không gì mạnh như cây xà nu đất ta”. Với sức mạnh của người chiến sĩ cách mạng và sức sống bất diệt của cây xà nu, Tnu đã nghiến răng chịu đựng mọi đau đớn, bình tĩnh trước dã tâm tăm tối của kẻ thù. Anh bỗng nghe tiếng chân ai rầm rập bên nhà ưng. Tự hỏi “Ai thế?”, vào giây phút xuất thần, Tnu hiểu rằng, mình cần phải làm gì. Anh thét lên một tiếng. Đó là tiếng kêu trả thù, tiếng gọi chiến đấu. Tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét mạnh mẽ hơn. Tiếng “Giết!”, tiếng chân người, tiếng hò reo chiến đấu của dân làng. Vậy là từ thế bị động, bị dồn vào bi kịch, người con kiên cường của Xô Man đã chuyển thành chủ động, khích lệ, động viên cả làng vùng lên tiêu diệt kẻ thù, chuyển hóa bi kịch riêng – tay không trước bày sói có vũ khí đầy đủ – để tạo thành sức mạnh tổng hợp – gươm giáo, lòng căm thù, dũng khí của con người và tiềm tang của mảnh đất,…Nghe tiếng thét của Tnu, cụ Mết và đội du kích từ trong rừng xà nu ào xuống làng. Nhựa xà nu tẩm vào những ngọn đuốc, gỗ xà nu biến thành cây gậy, cây rựa, mũi giáo tấn công kẻ địch. Mười tên giặc ác ôn bị giết, Tnu được cứu sống, Tnu đã chiến thắng, chiến thắng bằng lòng trung thành, bằng ý chí kiên cường, tư thế hiên ngang, bất khuất, sự bình tĩnh, tỉnh táo của bản thân anh, bằng sức sống của rừng xà nu, bằng tinh thần chiến đấu quả cảm, có tổ chức của cụ Mết, của dân làng Xô Man,…

Miêu tả và khắc họa nhân vật Tnu, Nguyễn Trung Thành sử dụng ngòi bút vừa tả thực với các phép tu từ so sánh, ẩn dụ, nhịp điệu câu văn bi tráng, khi trầm hùng, lắng sâu, khi mạnh mẽ, vang dội linh hoạt. Tất cả những vẻ đẹp tính cách trên của Tnu là tích hợp những vẻ đẹp trong nhân cách, lẽ sống của cả làng Xô Man. Tnu là biểu tượng rực sáng cho sức sống tiềm tang của làng Xô Man nói riêng và biết bao mảnh đất địa linh sản sinh, nuôi dưỡng nhân kiệt Việt Nam nói chung. Nhân vật Tnu tỏa sáng chủ nghĩa anh hùng Việt Nam thời chống Mỹ, đồng thời đẫm chất sử thi. Cuộc chiến đấu và chiến thắng của Tnu, của làng Xô Man là minh chứng cụ thể cho chân lý công cuộc kháng chiến chống Mỹ lúc bấy giờ như cụ Mết nói “Nhớ lấy, ghi lấy. Chúng nó cầm sung mình phải cầm giáo”.

Vũ Hường tổng hợp

0