16/01/2018, 13:36

Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà – Văn mẫu lớp 12

Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà – Văn mẫu lớp 12 Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà – Bài số 1 "Người lái đò sông Đà" là một tùy bút thành công của Nguyễn Tuân viết về một con người và một con sông, mọi cảnh ...

Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà – Văn mẫu lớp 12

Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà – Bài số 1

"Người lái đò sông Đà" là một tùy bút thành công của Nguyễn Tuân viết về một con người và một con sông, mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện, đặc biệt là hình tượng người lái đò.

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đò Sông Đà, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về phong cách đó.

Người lái đò Sông Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và một con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện. Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu có, chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút độc đáo này.

Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy mươi tuổi, đã giành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần…" trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tò sự khâm phục đối với con người này. "Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng". Thật là một cách so sánh “rất văn chương" đầy thú vị và cũng "rất Nguyễn Tuân".

Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun" và những cánh tay vẫn là cánh tay của một "chàng trai', "trẻ tráng quá", Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “Vàng mười”, ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với những thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền". Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh minh, ùa vào mà bè gẫy cán chèo, vũ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Cách miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ, con người chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại, "còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả..”, vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh táo bảo, khơi gợi lạ lùng, tác giả đã tả sông Đả thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông "reo lên như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ". “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay". Lại có những “hút nước" xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi"…

Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trờ, đầy nguy nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cải cuống lái…" Mặc dù mặt “méo bệch đi" vì những đòn hiểm, nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt mười lăm năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người và thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người đã chiến thắng, trở về cuộc sống thanh bình: "Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (…). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…".

Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn "bầm tụ” một “củ khoai nâu", với Nguyễn Tuân, “đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng".

Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ…, tác phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang.

Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà – Bài số 2

Với "Sông Đà" Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông núi Tây Bắc. Và "Người lái đò Sông Đà", một trong 15 bài tùy bút của kiệt tác "Sông Đà" ngào ngạt hương sắc như một cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng đầy chất thơ đồng hiện trong bài tùy bút là hình tượng con sông Đà và hình ảnh người lái đò, đúng là "mười phân vẹn mười".

Từ "Vang bóng một thời" đến "Sông Đà", một hành trình 20 năm có lẻ, cụ Nguyễn đã "xê dịch" để đi tìm thứ "vàng mười" còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây. Và một trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết "một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ". Ấn tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận tùy bút "Người lái đò Sông Đà".

Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý" (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái "một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian". Trong ấm trà pha ngon, cụ đã "nhận thấy có mùi và một vị triết lí" (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện "những cái hoài bão tung hoành của một đời con người"( Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bấc) có "tay lái ra hoa". Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên trong tầm vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đò khác, ông lái đò sông Đà này có "tay lái ra hoa"đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lẽn chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng".

Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ồng lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn thủy chiến. Chất tài hoa nghộ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ớ trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện" liều mạng xông vào "đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền". Ông đã bình tĩnh "hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng". Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc "bóp chặt lấy hạ bộ" đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng "hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái", tiếng chỉ huy của ông vẫn "gọn ngắn tỉnh táo" đưa con thuyền thoát hiểm. Thật là cao cường biết bao!

Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: "Dóng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò tấn công ngay "nắm chặt được bờm sóng" cho con thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Thằng đá tướng thất bại thảm hại "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".

Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết". Thần sông còn bố trí "bọn đá hậu vệ" của con thác hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.

Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Vói niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần sông, thần đá nơi thác ghềnh Đà Giang cả cái kho ngôn từ giàu có của mình, và vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội hoạ, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật v.v… Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa… hấp dẫn lạ thường.

Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những lúc ngừng chèo nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sông, thần đá, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chco, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi "cửa ải nước tướng dữ quân tợn" vừa rồi. Rất ung dung và thanh thản, ông lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá dầm xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.

Tùy bút "Người lái đò Sông Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyên Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người, đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dòng cảm xúc lai láng. Ông lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân vãn. Trên cái mênh mang của "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh", và giữa lớp lớp trùng vây thạch trận "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuộn luồng gió gùn ghè", ta thấy ông lái đò người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông đẹp quá; một vẻ đẹp Tây Bắc như đang "đề thơ vào sông nước" Đà Giang.

Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà – Bài số 3

Nguyễn Tuân là nhà văn có hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng. Trước 1945 ông nổi tiếng với các tác phẩm như Vang bóng một thời, Một chuyến đi… sau năm 1945 ông nổi tiếng với thể loại tùy bút mà tiêu biểu là các tác phẩm: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, tùy bút Sông Đà… Người lái đò Sông Đà là tác phẩm trích trong tùy bút Sông Đà được viết nhân chuyến thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc  trong lòng người đọc không chỉ là hình tượng con Sông Đà “hung bạo, trữ tình”  mà còn là bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ – một tay lái ra hoa.

Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý" (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái "một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian". Trong ấm trà pha ngon, cụ đã "nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lí" (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện "những cái hoài bão tung hoành của một đời con người" (Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc) có "tay lái ra hoa". Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.

Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân tợn, những hút nước chết người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và “sóng xô đá, đá xô gió” bỗng hiên ngang một người lái đò hùng dũng, oai phong như khắc như chạm. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số "củ nâu" thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng". Ông lái đò sông Đà này có "tay lái ra hoa" đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá.

Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn in đậm vẻ đẹp tâm hồn tính cách:

Thứ nhất, thể hiện ở sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng lạch trên sông Đà. Ông lái đò thể hiện sự hình thành “tính cách” của mình qua “trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở . Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và những đọan xuống dòng ”.” Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”. Đó chính là hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.

Thứ hai, ở sự thông minh linh hoạt, dũng cảm  như một viên tướng tài ba, như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng phải giành  những cái sống từ tay nhưng con thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút NT thể hiện qua hình ảnh ông lái đò vượt thác: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện" chúng liều mạng xông vào mà "đá trái” mà “ thúc gối vào bụng và hông thuyền… Có lúc chúng đội cả thuyền lên". Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “ hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.

Thật là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có! Cao cường biết bao! Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách "nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi" ông cho con thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt "tiu nghỉu, xanh lè thất vọng".

Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết cả". Đã vậy, còn bố trí "bọn đá hậu vệ" canh cửa hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.

Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu … Câu chữ tuôn chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra  một bức tranh hòanh tráng. Nhà văn đã dụng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái đò với dòng sông theo hướng thọat đầu tưởng như không cân sức. Nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Cuộc vượt thác thật ngoạn mục, ông lái đò thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa.

Thứ ba, ở sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ.

Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống của ông. Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sông nước lại thanh bình . Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống cơm lam, và tòan bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”. Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung dữ. Song qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái đò. Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ…”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ.

Có thể nói Người lái đò sông Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư thế của một người lao động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình tượng người lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài hoa, nghệ sĩ; để miêu tả vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh…

Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhàvăn gọi là “chất vàng mười” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật.

Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà – Bài số 4

Nhà văn Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước có tinh thần tự hào dân tộc, là người có ý thức cá nhân cao, cá tính độc đáo, lối sống tự do, phóng túng, ham hiểu biết, thích khám phá cái mới, cái đẹp, cái lạ. Là người quý trọng thực sự nghề nghiệp của mình, là người rất mực tài hoa, uyên bác. Tất cả những đặc điểm đó trong con người Nguyễn Tuân đã hội tụ để làm nên vẻ đẹp của ông, đặc biệt thể hiện ở tùy bút sông Đà. Ở tùy bút, nhà văn chú trọng xây dựng hình tượng người lái đò sông Đà.

Nhà văn tô đậm hình ảnh con sông Đà hung bạo, con sông Đà nhìn ra diện mạo và tâm địa kẻ thù số 1 của con người là để nhằm đề cao ông lái đò tài ba. Sông Đà đúng như lời đề từ nhà văn đã nói: " Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu ", không chỉ là duy nhất dòng chảy ngược Bắc mà còn là con sông có điểm độc đáo riêng : dữ dội, hung bạo. Nhà văn Nguyễn Tuân với sự am hiểu sâu sắc về thượng nguồn sông Đà cùng với ngôn từ, cách diễn đạt có sức gợi lớn giúp cho người đọc mở rộng hiểu biết về một con sông quê hương biết mấy tự hào. Nhà văn còn tô đậm tài hoa của những con người vô danh, ngày ngày chiến đấu với cái dữ dội, sức mạnh của con sông hung thần tức là nhà văn làm hiện lên vẻ đẹp của những con người làm chủ thiên nhiên man dại.

Đối với nhà văn những hoạt động bình dị của những người lao động vô danh trong cuộc sống đời thường như giã dò, lái đò. Hoạt động giã dò, công việc chèo đò đều là một thứ nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân đó là cả một nghệ thuật cao cường. Cho nên người lái đò sông Đà cũng chính là một nhân vật bình dị, vô danh với cuộc đời lao động đời thường nhưng trong cái nhìn của nhà văn đó là cái tài hoa nghệ sĩ.

Ông lái đò là người có trí nhớ tuyệt vời: Nhà văn đặc biệt ngợi ca trí nhớ tuyệt vời của ông lái đò: " Sông Đà đối với ông lái đò giống như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những chỗ xuống dòng". Ông còn nắm vững quy luật của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này.

Nếu như sông Đà lắm mưu nhiều kế, bày thạch trận trên sông, lúc nào cũng sẵn sàng ăn tươi nuốt sống bất cứ người lái đò nào qua nó. Nếu như sông Đà với diện mạo và tâm địa kẻ thù số một của con người với xoáy nước hiểm trở, sóng thác hung dữ, đá giống như những tướng dữ quân tợn thì ông lái đò nhỏ bé nhưng luôn tỉnh táo, bình tĩnh, tự tin, hiên ngang như một viên tướng trí dũng song toàn. Ông lái đò quả thực xứng đáng với danh hiệu anh hùng trên mặt trận sông nước. Trong cái nhìn của mọi người, lái đò là một công việc hết sức bình thường của tất cả những người dân sông nước, tuy nhiên với Nguyễn Tuân, công việc lái đò không hề đơn giản bởi vì đó thực sự là một cuộc vật lộn với thác ghềnh, với sóng nước, là một cuộc chiến đấu quyết liệt với thiên nhiên hiểm trở để giành lại sự sống về tay mình. Đó thực sự là một cuộc vật lộn sinh tồn chỉ lỡ tay, lỡ mắt là mất mạng ngay. Nhà văn tô đậm sự khắc nghiệt, dữ dội của sông Đà là để làm nổi bật sự vất vả, hiểm nguy của người lái đò sông Đà. Nhà văn có khẳng định: " Làm cái nghề vận tải đường nước này thật là vất vả, người cứ dựng đứng lên mà luôn tay, luôn mắt, luôn chân, luôn cả tim nữa ". Đúng là không chỉ vất vả mà tính mạng lúc nào cũng như "ngàn cân treo sợi tóc", hiểm nguy có thể đến bất cứ lúc nào, đau đớn cả về thể xác là không tránh khỏi: Sóng thác đã đánh đến cả miếng đòn hiểm độc nhất cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy…khiến ông lái đò nổ đom đóm mắt, mặt méo bệch đi.

Tuy nhiên, ông lái đò đã mấy chục lần chèo thuyền trên thác sông Đà mà mà vẫn sáng, thân hình vẫn gọn quánh như chất sừng, chất mun, vẫn dám thi với tất cả những tay lái đò tài ba ở khắp vùng.

Ông lái đò hiện lên là một người bình tĩnh: Nhà văn đã đem hy tài năng, ngôn từ của mình huy động sức gợi của nó, nhà văn còn sử dụng kết hợp quan sát, miêu tả, so sánh, tưởng tượng, liên tưởng để giúp cy người đọc hình dung hết được thượng nguồn sông Đà hiểm trở, dữ dội và cũng đem đến cho người đọc cảm giác rùng mình, hãi hùng, dựng tóc gáy, lấy gân gồng mình lên để cùng chèo con đò vượt qua dòng thác nhưng đối với ông lái đò thì nhà văn miêu tả ông ở tư thế thật bình tĩnh, thật chủ động. Ông đò không chỉ có trí nhớ tuyệt vời mà ông còn linh hoạt trong việc xử trí những bất ngờ trong quá trình chèo đò. Ví dụ khi bị thương ông nén vết thương, hai chân vẫn kéo chặt cuống lái, vẫn tỉnh táo, ung dung, vững tay chèo.

Nhà văn còn miêu tả ông lái đò là một người dày dặn kinh nghiệm chèo thuyền vượt thác. Ông lái đò không chỉ thông thạo các quy luật của thần sông, thần đá, ông còn rất dũng cảm, mỗi cử chỉ, mỗi động tác đều rất điêu luyện, chính xác, thật khéo léo. Ông đã phá cả ba vòng vây của sóng thác sông Đà:

Ở vòng vây thứ nhất: sóng nước như quân liều mạng khi thì chúng đánh hồi lùng , đánh đòn tỉa, đánh đòn âm, có lúc chúng lại hò la vang dậy, phóng thẳng vào mình, có lúc chúng đội cả thuyền lên nhưng ông vẫn giữ chắc mái chèo để khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa có những lúc dù bị thương, ông vẫn tỉnh táo. Ông xác định cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Ông hiểu sông Đà như hiểu lòng bàn tay mình cho nên chỗ ông nắm chặt bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái để đúng luồng mà phóng nhanh vào cửa sinh rồi lái miết một đường chéo về cửa đá ấy. Sau mỗi một vòng vây không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá tiếp luôn các vòng vây kế tiếp.

Ở vòng vây thứ hai dù ông đã đi trúng luồng sinh ,thì bốn năm bọn thủy quân ải nước vẫn xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử, ông đò nhớ mặt bọn này và rất điềm tĩnh, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Ông đò tránh hết được cửa tử để đi vào cửa sinh, tránh hết luồng chết để đi vào luồng sống, thuyền ông giống như một mũi tên tre mà xuyên qua hơi nước, tự động lái được, lượn được. Như vậy có lúc ông đò phải gồng mình lên , lấy hết sức, thậm chí hoa mắt, thốt tim nhưng ông luôn bình tĩnh, tự tin, làm chủ thế trận. Ông đò đúng là một con người thông minh, khéo léo, dũng cảm, táo bạo, dày dặn kinh nghiệm vượt thác chèo đò. Ông đò không chỉ dày dặn kinh nghiệm, trí nhớ tuyệt vời mà còn hiện lên với tư thế một anh hùng trên mặt trận sông nước. Trong cái nhìn của nhà văn, trong cảm nhận của người y, người nghe, lái đò là cả một nghệ thuật cao cường đúng là " tay lái ra hoa ". Với ông lái đò đây là công việc hết sức bình thường bởi vì sau khi vượt qua sóng thác hung bạo thì nhà đò không thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn, họ bàn về cá dầu xanh, cá oanh vũ.

Trong cái nhìn của nhà văn Nguyễn Tuân, con người được ví với khối vàng mười quý giá. Ông lái đò lại là người lao động nghèo khổ cống hiến âm thầm, giản dị , vô danh.Ông lái đò là một trong những con người vô danh đại diện cho sức mạnh của con người. Đoạn trích nói riêng, tùy bút nói chung là khúc hùng ca ca ngợi con người. ca ngợi ý chí lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi sức mạnh của sông nước trước sức mạnh của thiên nhiên man dại. Đó chính là chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc nói riêng và những con người lao động nói chung.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • làm bài 15 phút ngắn gọn phân tích hình tượng người lái đò sông đà
  • Phân tích hình ảnh ông lái đò sông đà qua đoạn trích sau mặc xong trong tích đến lúc ngừng chèo
0