21/02/2018, 09:24

Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Văn hay lớp 9

Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài làm 1 Thành công của một tác phẩm được làm nên từ rất nhiều yếu tố. Một trong số đó là những chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc với người đọc và đồng thời qua đó phải thể hiện được dụng ý nghệ ...

Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài làm 1

Thành công của một tác phẩm được làm nên từ rất nhiều yếu tố. Một trong số đó là những chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc với người đọc và đồng thời qua đó phải thể hiện được dụng ý nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác giả trong tác phẩm đó. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh nồi cháo cám vào trong tác phẩm, qua đó làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của nhà văn đối với cuộc đời và con người.

“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống cùng cực, thê thảm của người nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Tiêu biểu cho những người nghèo đói là gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nhà khó khăn đến vậy, việc lấy vợ của anh khiến cho ai nấy đều ngạc nhiên hết sức. Bởi giữa cảnh nghèo đói, cận kề với cái chết, nuôi thân mình còn chưa xong vậy mà lại còn đeo thêm miệng ăn, “rước cái của nợ ấy về”. Và trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người đọc không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ. Với chi tiết này, nhà văn cũng muốn nói lên tình yêu thương con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.

Nếu trong bữa ăn nghèo đói thường ngày thì đã đành, nhưng đây trong bữa sáng đầu tiên nhà có cô dâu mới mà cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy lại càng khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào vì bữa cơm đón nàng dâu mới thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và cả người đọc đều hiểu rõ, với bữa cơm như vậy thì lấy đâu ra mà ăn ngon lành cho cho được. Nhưng ở đây, cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì ai cũng hiểu, ai cũng nén trong lòng và cố làm ra vẻ vui tươi.

Nhưng có lẽ đó cũng là niềm vui thực sự. Bởi lẽ, vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện trước mắt, con người ta cũng biết trân trọng những hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ chính là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, dù trong cảnh nghèo đói nhưng vẫn vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới, thậm chí là còn vui mừng vì những tưởng con mình không có ai để ý đến vậy mà nay con đã lấy được vợ. Chính vì thế mà trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. [..] Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những chuyện tốt đẹp để mong tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là những mong ước của tất cả mọi người trong hoàn cảnh khó khăn ấy.

Nhưng vừa mới nhen nhóm lên được chút hy vọng thì thực tại đã đổ sầm ngya trước mắt. Khi mà bà cụ “lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!” nhưng kì thực đó lại là một nồi cháo cám. Đây được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, thì nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món “chè” xa xỉ hơn nhiều nhà khác rồi. Và vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Mẹ Tràng thì đon đả khen “ngon đáo để”. Tràng tuy cảm thấy nghẹn bứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ Tràng không còn chao chát đỏng đảnh như hôm gặp trên phố nữa mà thị đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Chính vì thế mà tất cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn.

Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong tâm trí người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo rất lớn. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy vậy nhưng trong cảnh chết chóc nghèo đó, người ta vẫn thấy ánh lên tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng như đang trong bờ vực của cái chết lắt lay, người ta chỉ nghĩ đến những thống khổ nhưng không, ở đây người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ dành cho chồng và trách nhiệm của một người chồng dành cho gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.

Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài làm 2

Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác phẩm mang tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó khăn. Tác phẩm “Vợ nhặt “ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong cảnh đói nghèo,tù túng. Tác phẩm đã thể hiện rát rõ hai giá trị,giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.

 Với tư cách là một nhá văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ nhặt được tái hiện là một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.

Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói "bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma", và sau đó là "người chết như ngả rạ", "thây nằm còng queo bên đường", "không khí vẩn lên mùi gây của xác người", rồi "mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt" và "tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya"…như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.

 Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: "những khuôn mặt hốc hác u tối trong "cuộc sống đói khát", "không nhà nào có ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu "áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên"… Số phận của họ có khác gì "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"…

Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia đình trọn ven. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua tâm trạng nhân vật Tràng:từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khát khao đến tổ ấm gia đình, đến một cuộc sông đích thực và cao đẹp của con người. Cho nên, tuy "chợn" khi nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng", nhưng Tràng vẫn "Chậc, kệ!" và dẫn vợ về nhà.  Trong tác phẩm Vợ nhặt “Anh vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có "một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy" dâng lên "ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,"; và nhất là, trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn: "Hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng", "bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Đây là đoạn văn đầy cảm hứng nhân đạo với các nhân vật của ông. Chính vì yêu thương chính vì khát khao có một mái ấm gia đình nên con người ta biết quí trọng những thứ xung quanh hơn. 

Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm". Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người giống như Tràng.

 Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo sâu sắc. ở đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của những người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua tấm lòng bà cụ Tứ đối với con trai và con dâu. Vượt lên tình thương con – nhất là đối với người đàn bà lạ bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương yêu giai cấp của những người nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là "con", tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ cố tạo ra niềm vui cho con trai và con dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi cháo cám thật cảm động trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới. Không chỉ là tấm lòng người mẹ thương con mà trong tình thương ấy còn có cả đức vị tha cao cả.

Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những cảm hứng trong tìm tòi và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của tác giả Kim Lân chúng ta có cơ hội đắm chìm trong không gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.

0