25/05/2017, 09:03

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Văn mẫu lớp 11

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Văn mẫu lớp 11 4.8 (96%) 380 votes Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Phú Thọ Chí Phèo là một truyện ngắn ...

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Văn mẫu lớp 11 4.8 (96%) 380 votes Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Phú Thọ Chí Phèo là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao. Chính truyện ngắn này đã đưa Nam Cao lên ...

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Phú Thọ

Chí Phèo là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao. Chính truyện ngắn này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 — 1945. Trước khi Chí Phèo ra đời đã có hàng loạt tác phẩm hiện thực viết về người nông dân bị áp bức, bóc lột đương thời mà tiêu biểu là Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Nhưng khi viết Chí Phèo, quả thật là Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Mà một trong những sáng tạo độc đáo của Nam Cao là xây dựng nhân vật hình tượng Chí Phèo.

Chí Phèo sinh ra đã là một đứa trẻ vô thừa nhận. Một buổi sáng, một anh đi thả ống lươn bắt gặp đứa trẻ trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bén cái lò gạch bỏ không. Anh ta đem về cho một người đàn bà góa mù. Người này bán hắn cho một bác phó cối không con. Mặc dù bị mua đi bán lại, nhưng ít ra tuổi thơ của Chí Phèo cũng còn được sông trong bàn tay cưu mang của người lao động. Khi đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo đi làm canh điền cho nhà bá Kiến. Có thế nói khởi điểm cuộc đời Chí Phèo là một con người lương thiện. Nhưng vì sao từ một con người hiền lành, nhút nhát và có lòng tự trọng. Chí Phèo lại trở thành một ke đâm thuê chém mướn, “một con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Nguyên nhân của sự tha hóa là sự ghen tuông của bá Kiên. Hắn đã bò tù Chí Pheo với một lí do hết sức tầm thường là ghen với anh canh điền hiền lành, khỏe mạnh nhưng lại được lòng bà Ba. Nếu như sự ghen tuông của bá Kiến là sự khởi đầu thì nhà tù thực dân phong kiến là bước tiếp theo nhào nặn Chí Phèo trở thành một con người biên chất, tha hóa. Lúc bước chán vào nhà tù, Chí Phèo chỉ là một anh chàng nông dân hiền lành, ngờ nghệch. Nhưng lúc ra khỏi nhà tù, hắn đã trỞ thành một con người khác hẳn – khác từ cái vỏ bề ngoài cho tới tính cách bên trong. “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mật thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trố rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay củng thế! Trông gớm chết”. Sự thay đối về ngoại hình này chỉ là bước đầu tiên đổ Nam Cao miêu tả sự biên đổi, tha hóa bên trong Chí Phèo, “hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa dến xế chiều”.

Cuộc đời của Chí Phèo cứ say tràn từ cơn này sang cơn khác. Chí gây sự với cha con bá Kiến, đội Tảo, nhưng Chí Phòo cũng dọa đốt quán bà hàng rượu và đem tai họa đến cho nhiều người dân vô tội khác. Lý giải quá trình biến chất này của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã chí ra được nguyên nhân chính: Đó là do những kẻ như bá Kiến, và sâu xa hơn, là xã hội thực dân phong kiến gây nôn. Chí vừa là nạn nhân khốn khô của bọn cường hào, địa chủ vừa là “con quỷ dữ" đối với nhân dân làng Vũ Đại. Chí Phèo sông cô độc giữa làng, trong sự ghê rợn xa lánh của toàn thể loài người, trong những thành kiên nặng nề của xã hội. Chí Phèo tức tối, đau khổ không ai biết, Chí Phèo chửi bới, kêu làng chẳng ai nghe. Chúng ta tưởng rồi Chí Phèo sẽ sông và chết đi trong cái hoang mạc cô đơn của chính mình. Thế nhưng thị Nở đã xuất hiện và mang đến tình vêu. Sự xuất hiện của thị Nở như một tia chớp làm sáng lên cuộc đời tăm tôi dằng dặc của Chí Phèo. Và chính thị Nở đã vựt Chí Phèo đứng dậy từ vực sâu của sự tha hóa. Thật bất hạnh cho một người con gái nêu như sinh ra trong đời đã không là một cô gái đẹp. Và nhân vật thị Nở lại càng bất hạnh hơn khi thị Nở chẳng có gì ngoài ba thư nghèo, xấu, ngán ngơ. Ba điều ấy như ba mặt của một lô cốt hình tam giác mà Nam Cao đã nhốt chặt nhân vật thị Nở vào trong đó. Nhưng bên trong cái xấu xí ấy là cả một tấm lòng biết cảm thông và chia sỏ. Lòng tốt và sự cảm thông của thị Nở tuy rằng không thể làm thay đổi một số phận nhưng cũng đã cứu được tâm hồn một con người.

Và môi tình Chí Phèo – thị Nở là một môi tình rất mực trần trụi nhưng cũng rất thực lãng mạn. Trần trụi bới vì họ là hai con người sống tận đáy xã hội, đều bị xã hội miệt thị và khinh ré như nhau. Ban đầu họ đến với nhau chỉ đơn thuần là do nhu cầu xác thịt, do nhu cầu của bản năng tầm thường và sự gặp gỡ ấy chỉ là sự gặp gỡ giữa hai thế xằc, hai c.on thú. Nhưng nếu như chỉ có hiện thực trần trụi ấy thôi thì Nam Cao đã không còn là Nam Cao và môi tình này cũng không có gì đáng nói. Dưới ngòi bút tưởng chừng như cười cợt, tàn nhẫn của tác giả là cả một tấm lòng nhân đạo. Đó là tình yêu thương chân chính rất được ông cảm thông và bênh vực. Thực ra, trong giai đoạn văn học 1930 – 1945 có nhiều mối tình rất đẹp nhưng nghiêm chỉnh mà nói thì có mối tình Chí Phèo – thị Nở là môi tình đẹp nhất, ở những mối tình khác, trai gái trao cho nhau sự sống tinh thần đã có sẵn. Còn ở môi tình này, họ đã trao cho nhau sự sông được chắt chiu từ cõi chết, từ đám rong rêu gỗ mục của một đời thống khố mênh mông này.

Sau đém gặp gỡ với thị Nở, Chí Phèo cầm thấy bâng khuâng mơ hồ buồn và lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Nếu như lâu nay say vô tận, “có lẽ chưa bao giờ tỉnh táo để nhỞ rằng có hắn ở trên đời” thì sáng nay lần đầu tiên hắn đã tỉnh táo. Và hắn tỉnh táo để nhìn lại cuộc đời mình. Từ những ngày xưa rất đổi xa xôi, đến hiện tại đáng buồn và nhất là tương lai chắc chắn sẽ là “đói rét, ốm đau và cô độc”. Lần đầu

tiên Chí Phèo đốì diện với chính mình và nhận ra tình trạng tuyệt vọng của bản thân. Và bát cháo hành bình dị mà thị Nở đem đến đã có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Chí. Nó đã góp phần đánh thức tâm hồn Chí Phèo, giúp Chí Phèo trở lại đúng bản chất của mình, trở lại là một anh canh điền trong sáng, lương thiện năm xưa. “Đó là cái bản tính thường ngày bị lấp đi”. Hắn ao ước được làm người, được vào địa hạt những tương giao nhân loại, được trở về với cuộc sống như mọi người.

Nhưng cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt, không cho Chí Phèo trở lại làm người. Xã hội – qua thái độ của bà cô thị Nở và của cả thị Nở nữa đã quá phũ phàng cự tuyệt khát vọng làm người của Chí Phèo. Con đường sông lương thiện mà Chí Phèo tưởng như đã trải ra trước mắt mình thực ra không hề có. Nó cũng như cái mặt hồ ảo ảnh trong sa mạc mênh mông một buổi trưa nắng cháy đối với người lữ hành đang khát nước. Và Chí Phèo đã kết thúc bi kịch cuộc đời mình khi vác dao đến đâm chết bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước đây để sông thì Chí phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ dữ. Đến khi ý thức về nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về thì lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình. Có thể nó đã chết ngay trên ngưỡng cửa trở về sự sông.

Trong trạng thái chập chờn say tỉnh, chưa nhận thức được ngay kẻ thù của mình. Những người đầu tiên mà Chí nghĩ đến đã là bà cô thị Nở và thị Nở – kẻ trực tiếp gây nên sự đổ vỡ của môi tình. Nhưng trên con đường dẫn đến nhà thị Nở, điều gì đã khiến Chí Phèo rẽ vào nhà bá Kiên? Có người lí giải hành động này chỉ là sự quon chân của Chí Phèo. Nhưng thực ra không hẳn vậy. Trong trạng thái chập chờn say tỉnh đã từng bước lần ra đầu mối của vấn đề. Đối mặt với bá Kiến, Chí dõng dạc: “Tao muôn làm người lương thiện”. Hai chữ “lương thiện” thót ra từ cửa miệng của Chí Phèo với biết bao nỗi niềm và tâm trạng đau đớn. Nó vừa là niềm khát khao đòi hỏi, đồng thời cũng là tiếng kêu đầy tuyệt vọng. Và động lực thúc đẩy giết bá Kiến không trực tiếp từ bi kịch tha hóa mà từ bi kịch bị cự tuyệt quyền được làm người lương thiện, từ nỗi đau khổ vì đã biết ý thức về nhân phẩm của mình. Cái chết của Chí Phèo ít nhiều mang một ý nghĩa giai cấp và ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó là bản cáo trạng bọn địa chủ cường hào gian ác và luận tội cả chế độ xà hội tàn bạo đen tối, xã hội thực dân phong kiến.

Tác phẩm Chí Pheo của Nam Cao được dư luận đánh giá cao chính là ở giá tri hiện thực của nó. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một cách sâu sắc hiện thực xà hội Việt Nam những năm 1940 -1945 và thực trạng đời sống người nông dân Ở những năm đen tối, ngột ngạt nhất.

Giá trị nhân đạo của Chí Phèo được nhà văn thê hiện với một bút pháp hết sức độc đáo, khác hẳn với các nhà văn đương thời. Đọc tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, người đọc dỗ dàng cảm nhận được những rung cảm, xót thương của nhà văn trước sô phận của các nhân vật. Nhưng với Chí Phèo của Nam Cao thì khác hẳn.

Ngòi bút của Nam Cao ở đây thật sắc sảo, lạnh lùng, đối lúc cười cợt, thậm chí có khi phũ phàng đối với nhân vật của mình. Nhưng thật ra đây chỉ là cảm giác bên ngoài. Đọc kĩ lại tác phẩm, ngẫm nghĩ sâu hơn vào cuộc đời, số phận nhân vật của Nam Cao, chúng ta mới thấu hiểu được tấm lòng nhân đạo rất mực sâu sắc và lớn lao của nhà văn. Nội dung nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo mang tính triết lí cao. Nó đã đật ra một vấn đề xã hội nóng bỏng, bức xúc: đó là tình trạng nhân tính con người đang bị chà đạp, bị biến chất. Số phận đau khổ của Chí Phèo không phải là cá biệt và sự biến chất, tha hóa của Chí Phèo là do xã hội thực dân phong kiến gây ra. Với tác phẩm Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã thỉnh lên một tiếng chuông báo động, lưu ý mọi người về cuộc sống của một tầng lớp người cùng khổ nhất trong xã hội.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: “Sông trên đời này cần có một tấm lòng”. Một tấm lòng để gió sẽ cuốn đi, ra sông, ra bể, lên núi, xuống vàng và rồi ở đâu cũng cảm nhận được “Những gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim”. Thật vậy, Nam Cao đã xây dựng hình tượng nhân vật Chí Phèo với tất cả tấm lòng nhân đạo và niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ. Và người đọc hôm nay đã hiểu thêm về thân phận con người trong xã hội cũ, từ đó càng thêm trân trọng và bảo vệ những gì hạnh phúc của mình đang có được. Chí Phèo mãi mãi là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945.

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 2

Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có Chí Phèo. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về bức tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là hệ thống tôn ti trật tự của làng Vũ Đại; là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực, đã miêu tả trung thực những quan hệ thực (Ăng-ghen). Đồng thời là tình thương đối với những con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hùi… Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.

Nam Cao được coi là nhà văn của nông dân trước hết vì ông có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xả hội nông dân Việt Nam đương thời.

Ngòi bút Nam Cao tỏ ra sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trạng nội bộ bọn cường hào. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế quần ngư tranh thực như lời ông thầy địa lí nói nên bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà do chúng là một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đấy, nhưng năm bè bảy mối. Ngoài mặt tử tế với nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụi bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội – ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.

Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức – phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.

Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến – lão cường hào cáo già với giọng quái rất sang, cái cười Tào Tháo cho thấy bản chất gian hùng, khôn róc đời. Và tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: thói ghen tuông, Bá Kiến nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra phương châm: mềm nắn, rắn buông, bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân… Với chính sách: lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng, không sợ chết, không sợ đi tù.

Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tô tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào phương diện: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt về nhân tính, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo không phải ở chỗ cuộc đời Chí Phèo chỉ là số không: không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi… mà chính là ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ mặt, cướp đi linh hồn, bị loại khỏi xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say rượu có cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Tuy say, nhưng vẫn mơ hồ thấm thìa nỗi khổ của thân phận. Chí Phèo là điển hình cho một bộ phận cố nông bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Chí Phèo trước hết là hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột tàn bạo ở nông thôn Việt Nam. Lúc bây giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Nam Cao khốn khổ giành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành lực lượng mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ chỗ liều chết với bố con lão, chỉ cần lời nói và mấy hào chỉ trở thành tay sai mới của lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm nổi bật hiện tượng có quy luật diễn ra ở nông thôn – hiện tượng lưu manh hóa. Song ý nghĩa khái quát của hình tượng Chí Phèo còn ở cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, nhân tính trong xã hội độc ác, không cho con người được làm người.

Tác phẩm Chí Phèo không dừng ở đó mà với câu chuyện về mối tình Chí – Thị, bằng giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu chuyện tình của hạng nửa người nửa ngợm thì đây vẫn là chuyện có nội dung nghiêm túc, chứa đựng tư tường nhân đạo mới mẻ.

Giữa lúc cả làng Vũ Đại không chấp nhận giao tiếp, xem Chí như quỷ dữ, thì một người đàn bà thuộc dòng giống ma hủi, xấu đến ma chê quỷ hờn lại có tấm lòng vàng, thấy Chí hiền lành, Thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí ở đáy sâu của sự tha hóa thức tỉnh bản chất người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy linh hồn Chí Phèo. Chí nghe thấy những âm thanh cuộc sống thường ngày mà bấy lâu nay vùi trong những cơn say nên Chí không biết đến. Nó vang động sâu xa trong lòng Chí, trở thành tiếng gọi cuộc sống khẩn thiết, làm Chí nhớ đến ước mơ nho nhỏ ngày xưa. Có lẽ đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Để rồi nhận ra sự tác oai, tác quái của mình bấy lâu nay. Và mong muốn giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?… Hay mình sang ở với tớ một nhà cho vui? Khi Thị Nở bê bát cháo hành đến hắn ngạc nhièn bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Hắn nhận ra hương cháo hành – hương vị tình yêu thương chân thành, hạnh phúc giản dị mà có thật. Hắn thèm lương thiện, làm hòa với mọi người. Tình yêu của Thị Nở cũng sẽ hé mở cho hắn con dường trở lại làm người. Hai con người bị làng Vũ Đại xua đuổi đã đến với nhau, tình yêu chân chính đã nhân đạo hóa con người. Chẳng phải tình yêu có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ đó sao?

Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người. Khi hiểu ra xã hội không công nhận mình, bà cô Thị Nở – định kiến xã hội đã không chấp nhận cho cháu bà đến với Chí. Chí vật vã đau đớn. Hắn càng uống càng tỉnh hắn ôm mặt khóc rưng rức. Chí quằn quại, đau đớn vì tuyệt vọng, thấm thía về tội ác kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát. Kẻ thù bị đền tội, và sau đó Chí tự sát. Chí phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, không chấp nhận kiếp thú vật. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, Chí chết quằn quại trong vũng máu, trong khao khát được làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện là lời nói đanh thép, phẫn nộ, làm người đọc sững sờ và day dứt. Đó vẫn là một câu hỏi lớn không lời đáp.

Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm chịu đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thông, tình thương yêu đối với người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện bản chất tốt đẹp vốn có của họ. Song cũng như các nhà văn hiện thực cùng thời, chưa tìm được cho nhân vật của mình lối thoát. Sau này, bằng con đường cách mạng, Tô Hoài, Kim Lân đã tìm cho nhân vật mình một hướng đi riêng.

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 3

Trong nền văn học hiện thực nước ta ngoài những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…thì cái tên Nam Cao được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rất cao về những tác phẩm tố cáo hiện thực của nhà văn này. Với nhưng quan điểm tích cực về văn chương Nam Cao đã cho ra đời những tác phẩm “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hẳn ai cũng biết đến tác phẩm nổi tiếng của ông đó chính là Chí Phèo, vẫn là một đề tài về người nông dân trong xã hội phong kiến thế nhưng Nam Cao không đi khám phá nhân vật về cuộc sống nghèo khooe phải bán chó bán con mà nhà văn nói về những số phận nông dân bị tước đoạt quyền làm người. Đặc biệt qua truyện ngắn này ta thấy được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Trước hết là giá trị hiện thực, vậy giá trị hiện thực là gì?. Có thể tạm định nghĩa là giá trị nói lên những bộ mặt hiện thực của cuộc sống mà từ đó khi nhìn vào đấy người ta biết rằng hiện thực nước ta lúc bấy giờ phải sống như thế nào. Chính vì thế nhà văn hiện thực Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo để từ một con số không tròn trĩnh để từ đó ta thấy được những bi kịch mà xã hội phong kiến thực dân đã gây nên cho một người dân lương thiện hiền lành.

Giá trị hiện thực trong truyện ngắn đó là phản ảnh quy luật ở nước ta thời Pháp thuộc, người dân lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng trở thành lưu manh hóa bần cùng hóa, thành một con quỷ dữ và không thể quay trở lại làm người được nữa. Tất cả những điều nói trên được thể hiện rõ qua cuộc đời đầy những đau thương bi kịch của nhân vật Chí Phèo.

Cách mở đầu câu chuyện của tác giả cũng góp phần thể hiện được hiện thực cuộc sống những năm ấy. Chí Phèo xuất hiện với dáng vẻ của một thằng say rượu vừa đi vừa chửi. Đó là cách mà hắn giao tiếp với mọi người xung quanh. Thế nhưng nào có ai tiếp chuyện Chí, họ không thèm chấp Chí Phèo khi chửi cả làng Vũ Đại.Cứ say là Chí chửi “bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, sau đó hắn chửi đời, đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình lên hắn chửi cả làng Vũ Đại nhưng làng Vũ Đại ai cũng nghĩ chắc nó chừa mình ra”. Cứ thế chỉ một thằng say rượu với ba con chó cũng làm inh ỏi cả làng nước lên rồi. Câu văn chua chát ấy giúp cho chúng ta thấy được Chí vốn là một con người nhưng lại được so ví đồng loại với ba con chó. Những điều Chí nói không ai thèm đáp lại. Người ta đâu coi Chí là con người.

Ngay từ nhỏ Chí sinh ra đã mang bi kịch lớn. Là một đứa bé mới đỏ hỏn vậy mà đã bị mẹ bỏ rơi. Chí chỉ được bọc trong một cái khăn, người tím ngắt lại và bỏ ở chỗ lò gạch cũ. Dẫu có may mắn được một anh nông dân cứu về đem lại sự sống cho Chí nhưng cuộc đời Chí lại chẳng một chút nào tươi sáng. Sống ở mảnh đất nghèo khó lại “quần ngư tranh thực” Chí được một người nhận nuôi nhưng vì nghèo mà Chí cũng phải đi ở đợ cho nhà người ta. Chí quả là một con người bất hạnh.

Không những tuổi thơ thiếu tình thương cha mẹ đến khi lớn lên anh cũng vẫn không thoát khỏi bi kịch. Chí lớn lên thành một chàng trai khỏe mạnh hiền lành. Chí ở đợ cho nhà Bá Kiến thế nhưng bà ba nhà Bá Kiến lại cứ thích Chí đấm bóp cho. Khổ một nỗi là Bà cứ bắt bóp lên cao cao mãi. Chí chỉ thấy nhục chú chẳng thấy yêu thương gì. Thế rồi Bá Kiến phát hiện và đã đẩy anh chàng lương thiện vào nhà tù thưc dân. Thế là quãng cuộc đời nghèo khổ nhưng bình yên của Chí cứ thế mà kết thúc một cách nhanh chóng.

Chí đi tù ra cánh cửa của nhà tù thực dân đã nhuộm đen tâm hồn chí. Anh không còn là một chàng thanh niên khỏe mạnh lương thiện nữa mà trở thành một con quỷ dữ. Người dân cứ thấy anh ở đâu là tránh xa. Nam Cao đã thành công khi miêu tả ngoại hình Chí Phèo ở tù ra. Nào là cái răng trắng hếu, cái đầu cạo trọc lóc, cái mặt thì cong cong lên, hai mắt gườm. Trang phục mà Chí mặc trên người là chiếc quần nái đen và cái áo tây vàng.

Không những thế hình ảnh ông tướng cầm chùy còn được xăm ở cánh tay hắn. Vậy là hắn trông chẳng còn vẻ gì là một người lương thiện nữa rồi. Từ đây cuộc đời Chí trải dài trên những cơn say, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, rạch mặt ăn vạ trong lúc say. Chí trở thành một tay sai đắc lực của Bá Kiến. Và kết cục thì Chí vẫn cứ không được làm người. cho đến khi chết thì cả làng Vũ Đai cũng không ai coi Chí là người cả. Đó phải chăng là bi kịch tinh thần đau đớn nhất mà một con người phải gánh chịu. Sống là kiếp con người mà cũng không được trọn kiếp con người.

Không chỉ nói lên quy luật người nông dân lương thiện bị tước quyền làm người nhà văn còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến đã cướp đi quyền làm người của những người nông dân lương thiện. Xã hội ấy đã biến Chí thành một con quỷ dữ và tuyệt đối không cho Chí quay lại làm người. Chí chỉ còn có cái chết để kết thúc cuộc sống quỷ dữ ấy chứ không thể nào trở lại làm người được.

Ngoài giá trị hiện thực sâu sắc tác phẩm còn lấp lánh những giá trị nhân đạo cao cả. Giá trị nhân đao chính là cái nhìn hướng thiện của con người, nhìn vào những điểm tốt của con người, yêu thương con người và hướng cho họ đến một tương lai tươi sáng hơn.

Thứ nhất giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua sự đồng cảm của nhà văn dành cho nhân vật của mình. Nhà văn miêu tả Chí Phèo là một con quỷ dữ không một chút thương tiếc, Nam Cao nhìn nhận vấn đề và nói thật vấn đề thế nhưng không phải ông không thương nhân vật của mình. Nhà văn càng nói rõ cái tàn ác của Chí bao nhiêu thì càng thể hiện được tấm lòng thương cảm sâu sắc bấy nhiêu. Bởi vì tô đậm được cái xấu biểu hiện bên ngoài Chí là nhà văn tố cáo được xã hội tàn ác kia. Chính bởi đồng cảm với số phận ấy cho nên nhà văn mới dành nhiều tình cảm cho Chí đến thế. Nam Cao hiểu hết được những suy nghĩ của chí cả lúc say cho đến lúc tỉnh.

Thứ hai giá trị nhân đạo của tác phẩm là sự yêu thương con người. Nhà văn khẳng định chính tình yêu thương con người sẽ sưởi ấm và làm trỗi dậy bản chất tốt đẹp trong Chí. Có thể nói Thị Nở là một món quà mà nhà văn dành cho Chí. Cô ta là một người xấu ma chê quỷ hờn ế chồng, mả hủi thế nhưng lại có công thức tỉnh Chí. Tình yêu dù là bồng bột của Thị đã làm cho Chí kết thúc những tháng ngày say xỉn của mình. Đặc biệt là bát cháo hành của Thị Nở càng làm cho Chí ấm lòng và thấy thị giống như là mẹ mình vậy. Lần đầu tiên Chí khóc sau khi ra tù.

Thứ ba, nhà văn còn giúp chúng ta thấy được bản chất tốt đẹp của người nông dân qua hình tượng Chí Phèo. Đồng thời nhà văn hướng cho nhân vật của mình đến một tương lai tươi sáng hơn. Chí thức tỉnh và nhớ đến ước mơ giản đơn của mình.Đó là vợ chồng có một ngôi nhà để ở hàng ngày chồng cuộc thuê cày mướn vợ ở nhà đan sợi nuôi tằm. ước mơ ấy cho thấy Chí là một người nông dân rất lương thiện. Kể cả khi ra tù thành quỷ dữ, Chí vẫn biết rung động trước một người đàn bà là Thị nở. Điều đó chứng tỏ Chí biết yêu thương. Chí cảm động trước những hành động săn sóc của Thị. Chí khóc và mong muốn Thi sang ở nhà Chí một nhà cho vui. Và cái viễn cảnh sẽ diễn ra giống như ước mơ của Chí. Đó chẳng phải là bản chất tốt đẹp bấy lâu nay của Chí, và anh đang hướng đến một tương lai tươi sáng hay sao?. Chí muốn làm hòa với mọi người và từ đó phần người trong Chí được trỗi dậy. Ngay đến khi cái kết cục thảm khốc kia Chí vẫn cứ khẳng định sự thức tỉnh và đòi quyền làm người của mình. Giá trị nhân đạo là ở đấy.

Chí Phèo trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Nó không hấp dẫn bởi những lời hoa mĩ sáo rỗng, không cầu kì nhân vật mà chỉ với giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc Chí Phèo đã lôi cuốn biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc. Quả thật nhà văn Nam Cao đã có công rất lớn trong việc phản ánh số phận người nông dân trong xã hội cũ.

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 4

Trong  dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945 Nam Cao là người đến sau, trước đó đã có những cây bút như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan.Nhưng có lẽ với Chí Phèo, Nam Cao đã đem lại cho chúng ta những ấn tượng mạnh mẽ không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt ,bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm ghét cái xã hội tàn ác đã chà đạp lên nhân phẩm cuả con người, thương xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa trong chế độ cũ.

Căm ghét xã hôi thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông,yêu thương con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45. Tuy nhiên,trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã khám phá hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó là một hiện thực phổ biến lúc bấy giờ. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người : con người không được là chính mình, thậm chí không cò  được là con người mà trở thành con “quỉ dữ” , do những âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một thế lực thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lý giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái chan chứa yêu thương, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với  những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn cùng thời.

Phải nói rằng trong bất cứ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực bao giờ cũng đi liền với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc, những giá trị ấy càng thẫm thấu và thống nhất với nhau khó tách rời. Chí Phèo của Nam Cao cũng không nằn ngoài quy luật ấy .

Đi vào tác phẩm mở đầu là cảnh Chí Phèo ngất ngưỡng trên đường vừa đi vừa chửi, từ trời đến người đã sinh ra hắn, tiếng chửi hằn học, cay độc và chua xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi. Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt,giết chóc,ăn vạ gây gỗ v.v..trong đó Chí Phèo hiện lên như một hiện tượng điển hình. Ta hãy lắng nghe nhà văn miêu tả: “ Bây giờ thì hắn trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín ? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi. Cái mặt hắn không trẻ cũng không già ; nó không phải là mặt người : nó là một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới , dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nưa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở đời …..Hắn đâu biết hắn đã phá biết bao cơ nghiệp, đập bao cảnh yên vui ,đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện …Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn …” Đoạn văn chất chứ bao nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn có được cuộc sống của một con người . Những năng lực nhận biết vốn có của một con người hầu như bị phá hủy , chỉ còn lại năng lực đâm chém,phá phách. Chí Phèo đã bị phá hủy nhân hình lẫn nhân tính như thế là bởi do đâu? Chúng ta thấy nhà văn không tập trung miêu tả dông dài quá trình tha hóa đó mà dường như ông thiên về lí giải và phân tích đâu là cái cội nguồn sâu xa dẫn đến bi kịch đó, chỉ bằng một số phác thảo đơn sơ về Bá kiến,về nhà tù thực dân, về bà cô Thị nở, về dư luận xã hội …Tong hàng loạt mối liên kết ấy, chúng ta dễ dàng nhận ra : sở dĩ Chí Phèo từ một thanh niên hiền lành như cục đất hóa thành con quỷ dữ là bởi vì Chí, ngay từ thủa lọt lòng đã thiếu hẳn tình ấp ủ yêu thương ,đặc biệt khi lớn lên chỉ được đối xử bằng rẻ khinh, thô bạo và tàn nhẫn. Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến được nhà văn miêu tả là một con cáo già “ khôn rốc đời” , “kẻ ném đá giấu tay”, “ già đời trong nghề đục khoét” , biết thế nào là “ mềm nắn rắn buông” ,” Hay ngấm ngầm đẫy người ta xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn . Hay đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng rồi vứt lại trả năm hào vì thương anh túng quá!”. Chính hắn đã lập mưu đẫy Chí Phèo vào tù và sau đó sử dụng Chí Phèo như một tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá Kiến thì không có chí Phèo ,Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà còn là phương tiện tối ưu để thống trị : “ Không có mấy thằng đầu bò thì lấy ai mà trị mấy thằng đầu bò” ,Chính Bá Kiến đã rút ra kết luận mà theo hắn rất chí lí ấy . Là một kẻ nham hiểm ,nhẫn tâm nhưng Bá Kiến lại hiện ra bên ngoài là một kẻ ôn hòa, xởi lởi ,biết điều , khiến người đời phải nhìn hắn bằng cặp mắt “ kính cẩn” … Vì thế mà hắn lường gạt không biết bao nhiêu người dân chất phát lương thiện . Chí Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn ; thật sự bị biến thành công cụ , phương tiện thống trị cho kẻ thù của mình mà không tự biết .Bá Kiến hiện ra trong tác phẩm như một nhân vật điển hình cho một bộ phận của giai cấp thống trị .Cùng với hắn là Lí Cường ,Chánh Tổng, Đội Tảo,Bát Tùng …chính chúng đem lại không khí ngột ngạt khó thở cho nông thôn Việt Nam . …như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là hệ thống nhà tù dã man, bẩn thỉu .Quá trình Chí Phèo ở tù không được miêu tả trực tiếp, chỉ biết khi vào tù Chí Phèo là người hiền lành lương thiện. Ra khởi tù, hắn trở làng với cái vẻ hung đồ ,ương ngạnh được học từ đó. Với bấy nhiêu thôi cũng đã quá đủ để ta cảm nhận. Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả, khi kể theo một kết cấu tâm lí và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức bề ngoài tưởng chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn nhưng chất chứa bên trong biết bai nỗi niềm quằn quại,đau đớn trước thân phận của kiếp người .Lồng vào bức tranh hiện thực đó là thái độ yêu ghét, là cách phân tích và dánh giá những vấn đề về hiện thực mà nhà văn đặt ra . ngay việc lựa chọn một nhân vật cùng đinh thống khổ nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gửi gắm biết bao thông cảm, suy tư thương xót … tự nó đã mang nội dung nhân đạo .Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật tha hóa đến tận cùng . Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp  vốn dĩ ,chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết .Sự xuất hiện của Thị Nở  có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn” ,lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của tâm hồn Chí Phèo , làm gợi  dậy tính người ở nơi Chí Phèo . Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở , Chí Phèo giờ đây đã cảm nhận được ánh sáng, âm thanh của cuộc đời – tiếng chim vui vẻ , tiếng anh thuyền chèo gõ mái gọi cá , tiếng lao xao của của người đi chợ  bán vải … Đó là những âm thanh quen thuộc ngày nào chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy . Chao ôi là buồn , trong cái phút tỉnh táo ấy Chí Phèo như đã trông thấy tuổi già ,đói rét và cô độc – cái này còn sợ hơn cả ốm đau. Cũng may Thị Nở mang bát cháo tới ,nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng : Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con , hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ …Ôi sao mà hắn hiền ! “ Hắn thèm lương thiện – Hắn khao khát làm hòa với mọi người “ … Từ một con quỷ dữ , nhờ Thị Nở , nói đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở , Chí thực sự trở lại làm người ,với tất cả những năng lực vốn có . Một chút tình thương ,dù là tình thương của một người dở hơi, bệnh hoạn,thô kệch,xấu xí … cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo . thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào ! Bằng chi tiết này, Nhà văn Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ .

Thế nhưng  đau đớn thay, rốt cuộc cái mơ ước nhỏ nhoi  được làm người lương thiện đó của Chí không đến được với Chí – Ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí – Chí  hiểu mình không còn trở về với cuộc sống của cộng đồng lương thiện được nữa .Xã hội đã cướp đi của Chí quyền làm người vĩnh viễn và không trả lại .Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say ,bao nhiêu lần đâm chém …đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời . Cái chết của Chí là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đao ,và  cũng là tiếng kêu cứu về quyền làm người , cũng là tiếng gọi thảm thiết : Hãy yêu thương con người , Hãy cứu lấy con người . Đó là tư tưởng và tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo sâu sắc mà chúng ta cảm nhận từ những trang sách của nhà văn Nam Cao.

Từ khóa tìm kiếm

  • nêu giá trị hiện thực của tắt đèn

Bài viết liên quan

0