21/02/2018, 09:30

Phân tích bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua “Độc tiểu thanh ký” và “Chinh phụ ngâm” – Văn hay lớp 10

Phân tích bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua "Độc tiểu thanh ký" và "Chinh phụ ngâm" – Bài làm 1 Phụ nữ khi sinh ra là đã mang trong người những định kiến, tư tưởng, ràng buộc, những tiêu chuẩn để đánh giá về mình. Từ thời phong kiến, khi còn bé cho tới lúc già ...

Phân tích bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua "Độc tiểu thanh ký" và "Chinh phụ ngâm" – Bài làm 1

Phụ nữ khi sinh ra là đã mang trong người những định kiến, tư tưởng, ràng buộc, những tiêu chuẩn để đánh giá về mình. Từ thời phong kiến, khi còn bé cho tới lúc già thì lúc nào họ cũng học để làm một người con hiếu thảo, một người vợ đầy đủ tam tong tứ đức, một người mẹ tuyệt vời. Có lẽ chính những điều này đã biến thân phận của những người phụ nữ trở thành những tấm bi kịch. Để hiểu thêm về vấn đề này chúng ta có thể tìm hiểu sâu hơn qua các tác phẩm như là Độc tiểu thanh ký của Nguyễn Du và Chinh Phụ ngâm của Đặng Trần Côn để có thể hiểu rõ hơn về cuộc đời, số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ.

ở trong cái xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ thì dường như bạc mệnh là số phận chung của các hồng nhan và hai tác phẩm  Độc tiểu thanh kí và Chinh phụ ngâm đã chứng minh cho điều ấy rất rõ ràng.

Độc tiểu thanh kí là bài văn chữ Hán cưa Nguyễn Du được in trong Thanh Hiên thi tập. Trong tác phẩm, nàng tiểu Thanh là một cô gái tài sắc vẹn toàn, đa sầu đa cảm, vì hoàn cảnh bắt buộc mà nàng đã phải chịu làm lẽ một thương gia họ Phùng ở Hàng Châu, nàng bị vợ cả của chồng ghen tuông, hành hạ và phải sống cô quạnh một mình ở núi Côn Sơn. Tuổi thanh xuân của nàng bị giam hãm trong những bức tường lạnh lẽo không hơi ấm. Thương tiếc cho chính số phận của mình, nàng gửi tâm tình của mình vào những dòng thơ để ghi lại những đau buồn sầu khổ. Ít lâu sau, vào cái độ tuôi mười tám mà nàng đã phải từ giã cõi đời, nàng ra đi trong cô đơn, oán hờn. Nàng chết nhưng vẫn chưa yên, vợ cả nhẫn tâm đốt cả tập thơ của nàng để lại, nhưng người đời giữ lại được Phần dư của tập thơ và lưu truyền cho phận đời bạc mệnh của nàng.

Nguyễn Du đọc được những câu thơ của nàng tiểu Thanh, lòng thương cảm với cô gái tội nghiệp ấy dạt dào, đồng thời bày tỏ niềm day dứt trước số phận hồng nhan bạc phận của bao người phụ nữ tài hoa khác, được thể hiện rất rõ ràng qua các câu thơ:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Son phấn có thần chon vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang,

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

May mắn hơn nàng tiểu Thanh, người chinh phụ có chồng và đã được sống những tháng ngày hạnh phúc mặn nồng lứa đôi bên chồng. Thế nhưng bi kịch của nàng đã xảy ra khi có chiến tranh, chồng nàng ra đi với mong muốn lập công để lấy ấn phong hầu. Người chinh phụ ở lại phải chờ đợi chồng trong cảnh cô đơn mòn mỏi, lặng lẽ nhìn tuổi xuân của mình trôi qua một cách tuyệt vọng. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi đã khiến người chinh phụ nhận ra rằng tất cả những điều như công danh, ấn phong hầu âu cũng chỉ là danh nghĩa mà thôi, tất cả chỉ là phù phiếm, và nàng chợt hối hận:

Chợt thấy màn dương liễu đầu đường

Hối hận đã để chồng đi tòng quân để tìm kiếm ấn phong hầu.

Tấn bi kịch chung của nàng tiểu Thanh và người chinh phụ, cũng là bi kịch của đại đa số phụ nữ ở trong xã hội cũ, đó là bi kịch về hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn, người phụ nữ không hề có quyền để quyết định cho chính cuộc sống, niềm hạnh phúc của mình. Hạnh phúc đối với họ rất mỏng manh, mơ hồ. Có chăng cũng nhờ may mắn mà thôi.

Đến với tiểu Thanh ba trăm năm sau khi nàng mất, nhà thơ ngậm ngùi trước cành tan thương, cảnh đẹp Tây Hồ đã hóa gò hoang. Thời gian đã hủy hoại tất cả, gò hoang đã chon vùi nàng tiểu Thanh xấu số, cuộc đời của người con gái ấy cũng chẳng còn gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh đẹp ấy khiến cho tình này nhân lên gấp bội, nhà thơ thổn thức trước số phận của con người xấu số

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

Không phải cứ chết đi là hết, nàng chết những thâm tâm không cam lòng cho số phận hẩm hiu, có chồng nhưng lại phải chịu cảnh lẻ loi một mình, không biết tâm sự nỗi buồn này cùng ai, nàng đành nhờ những dòng thơ lưu lại cảm xúc của mình để vơi bớt sầu đau, vậy mà vẫn bị người vợ cả đành tâm ghen ghét và đốt đi, may mắn có người tìm được và lưu lại cho đời sau để cho Nguyễn Du đã đọc được , nhà thơ đọc tập thơ và cảm nhận rằng linh hồn nàng vẫn còn vương vấn chốn trần gian:

Son phấn có phần chon vẫn hận,

Văn chương vô mệnh đốt còn vương.

Không phải chịu cảnh lẻ loi lúc có chồng, nhưng người chinh phụ của Đặng Trần Côn cũng rơi vào bi kịch, bi kịch đó do chiến tranh gây ra. Chiến tranh xảy ra chồng nàng phải ra trận với mông ước mang được ấn phong hầu trở về, để lại nơi quê nhà người vợ trẻ đang độ tuổi xuân xanh phải nuôi mẹ gia và chờ đợi phu quân trở về trong vô vọng.

Nàng tự hỏi vì sao đôi lứa phải chia cắt? Vì sao lại phải lâm vào tình cảnh một mình nuôi mẹ già con dại? vì sao có chồng mà vẫn lẻ bóng?

Người chinh phụ thấy lòng trống vắng lạ lung, tâm trạng nàng bồn chồn, nàng ngóng tin vui mà mãi chẳng thấy đâu, suốt năm canh một mình bên đèn, nỗi niềm không biết san sẻ cùng ai:

Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi

Buồn rầu nói chẳng nên lời

Hoa đèn kia với bóng người khá thương

Gà eo óc gáy sương năm trống

Hòe phơ phất rủ bóng bốn bên

Khắc giờ đằng đẵng như niên

Mối sầu dằng dặt tựa miền biển xa.

Tâm thế của nàng bây giờ thật chơi vơi, khổ sở, bất an. Nàng chỉ biết gửi niềm thương nhớ vào gió mây mà thôi.

Bi kịch của nàng tiểu thanh là ở chế dộ đa thê, nàng phải chịu đựng nỗi cô đơn đến chết vì sự ghen tuông hành hạ của người vợ cả, chết đi còn bị ghen tuông, chết mà chẳng thể còn lưu lại được một tập thơ của mình. Còn bi kịch của người chinh phụ là bi kịch chờ đợi mòn mỏi khi người chồng ra trận, chờ chồng mang theo phong ấn trở về những đổi lấy chỉ có sự tuyệt vọng. chiến tranh đã cướp đi tuổi thanh xuân, cướp đi hạnh phúc của nàng. Tiểu Thanh và người chinh phụ có bi kịch khác nhau, nhưng chung quy lại thì họ đều rơi vào bi kịch, đó là bi kịch hạnh phúc dang dở, bi kịch khi phải chịu cảnh chồng chung năm thê bảy thiếp của phong kiến, là những cuộc chiến tranh, là giấc mộng vinh quang. Nguyễn Du và Đặng Trần Côn đã thông qua tác phẩm của mình để thay những người phụ nữ ấy đòi quyền sống, quyền được hạnh phúc.

Phân tích bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua "Độc tiểu thanh ký" và "Chinh phụ ngâm" – Bài làm 2

Trong Truyện Kiểu, thi hào Nguyễn Du đã mượn lời Thúy Kiều – cô gái tài hoa bạc mệnh – để khái quát chung về số phận bi thảm của người phụ nữ dưới thời phong kiến trọng nam khinh nữ:

Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, ai oán, như một lời than phẫn uất trước định mệnh bất công. Tiếc thay, trong xã hội như thế thì bạc mệnh đã trở thành số phận chung của bao kẻ hồng nhan. Các tác phẩm nổi tiếng như Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn) và Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều) đã chứng minh cho bi kịch ấy.

Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du, in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài thơ này trước hoặc sau khi được triều đình nhà Nguyễn cử đi sứ sang Trung Quốc.

Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc, sống vào đầu đời Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm lẽ một thương gia giàu có họ Phùng ở Hàng Châu. Vợ cả ghen, bắt Tiểu Thanh ở một minh trong ngôi nhà biệt lập trên núi Cô Sơn. Tuổi thanh xuân của nàng bị giam hãm trong bốn bức tường quạnh quẽ. Thương thân, tiếc phận, Tiểu Thanh làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, nàng chết vì buồn, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ, may còn sốt lại một số bài được người đương thời chép lại, đặt tên là Phần dư( xót còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc mệnh của nàng.

Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao phụ nữ tài hoa khác. Cảm xúc ấy đã được tác giả thể hiện qua bài thơ nổi tiếng

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi.

Cái án phong lưu khách tự mang,
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau khi nàng mất, nhà thơ ngậm ngùi trước cảnh đời tang thương dâu bể. cảnh đẹp Tây Hồ đã hóa gò hoang. Thời gian hủy hoại tất cả. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nhắc đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả có ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức nàng Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc ấy cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của thi sĩ thổn thức trước tập thơ gợi lại kiếp người xấu số:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua tập thơ như thế nào? Chắc chắn đó là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh và có cảm giác như linh hồn nàng vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết trong cô đơn, héo hắt. Tuổi thanh xuân của nàng đã bị đoạ đày, tước đoạt,thì oan hồn nàng làm sao siêu thoát được?

Son phấn có thẫn chôn vẫn hận,
Văn chương vô mệnh đốt còn vương.

Son phấn tượng trưng cho sắc đẹp của phụ nữ, mà sắc đẹp thì có thẩn. Dù người đẹp có thể bị đoạ đày, vùi dập và chết đi thì tên tuổi họ vẫn đời đời lưu lại như Tây Thi, Dương Quý Phỉ… Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của giới văn nhân tài tử nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó không biết đến sống chết, ấy vậy mà ở đây, văn chương như có linh hồn, cũng biết giận hờn và biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nhắn gửi đến hậu thế những điều tâm huyết. Dù tập thơ của Tiểu Thanh đã bị đốt phần lớn nhưng chỉ một chút còn lại cũng đủ để người đời thương cảm và xót xa cho nàng. Trong xã hội phong kiến CŨ, có biết bao nhiêu nàng Tiểu Thanh như thế?

Cùng một mối thông cảm vả xót thương như Nguyễn Du, Đặng Trần Côn đã sáng tác rá Chinh phụ ngâm để phản ánh nỗi khổ của những người phụ nữ có chồng ra trận, lên án chiến tranh gây nên cảnh sinh li tử biệt. Tác phẩm chứa đựng tư tưởng đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã dịch từ chữ Hán sang chữ Nôm, chuyển tải một cách tài tình nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.

Đoạn trích Tinh cảnh lẻ loi của người chinh phụ gồm từ câu 193 đến câu 228, kể về việc sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra đánh chiến trường đầy hiểm nguy chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao đôi lứa phải chia cắt? Vì sao phải lâm vào tinh cảnh éo le một mình nuôi mẹ già con dại? Vì sao có chổng mà lại phải chịu cảnh phòng không chiếc bóng? Có thể coi đây là đoạn thơ thể hiện rõ nhất tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả.

Người chồng đã lên đường ra trận, người vợ trẻ thấy lòng trống vắng lạ lùng. Nàng lặng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, trong nỗi cô đơn trĩu nặng. Tâm trạng nàng bồn chồn, đứng ngồi không yên, sốt ruột mong ngóng tín vui mà chẳng thấy. Suốt năm canh một mình một bóng bên đèn, nỗi khổ không biết san sẻ cùng ai:

Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, cho dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.

Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không muốn đụng tới bất cứ thứ gi vì linh cảm đến sự chia lìa, tan vỡ của hạnh phúc lứa đôi. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi*vơi, khiến cho cuộc sống trỏ nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:

Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng.
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun…

Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nói lên bi kịch không được sống hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh của tác giả.

Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều là lời ca ai oán của người cung nữ có tài sắc, lúc đầu được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu lại bị ruồng bỏ, lãng quên. Ở trong cung cấm, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc.

Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ gồm 36 câu, từ câu 209 đến 244 của tác phẩm. Nhà thơ đặc tả tâm trạng chua chát, cay đắng của người cung nữ:

Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa thúy dần lại thôi.

Trong tình cảnh cô đơn và tuyệt vọng, nàng nhận thấy mình ngày mới vào cung tươi đẹp, mơn mởn như bông hoa vừa hé nở, thắm sắc thơm hương. Còn giờ đây, thân phận nàng nào có khác chi hoa tàn nhị rữa, chẳng ai còn thương tưởng, đoái hoài đến. Càng ngẫm nghĩ lại cồng chua xót. Nỗi chua xót, tủi hờn cứ theo ngày tháng mà cuộn dâng, giày vò tâm hồn và thể xác nàng. Người cung nữ ý thức được một cách sâu sắc rằng mình: Bỗng không mà hoá ra người vị vong, có nghĩa là chẳng khác chỉ một người đàn bà góa bụa, trớ trêu hơn là góa bụa giữa tuổi xuân xanh.

Tâm trạng của người cung nữ lúc ngậm ngùi buồn khổ, lúc ai oán băn khoăn, khi thẫn thờ da diết và cuối cùng là bực bội, giận hờn. Dường như nàng ngày một chìm sâu trong nỗi chán chường, tuyệt vọng. Không thể giải thoát khỏi cảnh cô đơn, nàng âm thầm rút vào cuộc sống nội tâm đầy giằng xé, dằn vặt. Buồn đến khắc khoải, ngán đến ngẩn ngơ và đau đớn đến xé lòng khi nhìn thẳng vào thực trạng thê thảm của số phận:

Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa!
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng!

Buồn tủi đã kéo dài quá sức chịu đựng, người cung nữ oán trách nhà vua một cách gián tiếp nhưng không kém phần gay gắt:

Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!

Cuối cùng là sự bất bình trước số kiếp hồng nhan bạc mệnh, muốn phá vỡ tất cả cung vàng lầu ngọc để trở về với cuộc sống bình thường, dân dã mà hạnh phúc:

Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!

Các nhà thơ có lòng nhân ái sâu xa đã đưa hình tượng người phụ nữ cùng bi kịch của họ vào văn chương muôn đời. Những số phận bất hạnh như Tiểu Thanh, Thúy Kiều, người chinh phụ, người cung nữ… chỉ là một vài trong muôn triệu kiếp sống khổ đau dưới xã hội phong kiến đầy ràng buộc khắt khe và định kiến nghiệt ngã đối với phụ nữ. Đọc thơ của các nhà thơ trên, chúng ta hiểu vì sao phải xóa bỏ xã hội bảo thủ, bất công, lạc hậu ấy để bảo vệ quyển sống tự do, hạnh phúc cho phụ nữ nói riêng và con người nói chung.

0