28/05/2017, 15:17

Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh

Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh – Bài làm 1 Đất nước ta sống trong một hoàn cảnh có không gian địa lý đặc biệt: lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển Đông bốn mùa sóng vỗ. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: Từ Bắc ...

Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh – Bài làm 1 Đất nước ta sống trong một hoàn cảnh có không gian địa lý đặc biệt: lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển Đông bốn mùa sóng vỗ. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: Từ Bắc xuống, từ Nam lên, tứ Tây sang, từ Đông vào cho nên cùng với những chiến công hiển hách; phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh, nền văn ...

– Bài làm 1

Đất nước ta sống trong một hoàn cảnh có không gian địa lý đặc biệt: lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển Đông bốn mùa sóng vỗ. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: Từ Bắc xuống, từ Nam lên, tứ Tây sang, từ Đông vào cho nên cùng với những chiến công hiển hách; phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh, nền văn học chúng ta cũng đã có những áng văn kiệt tác khẳng định đanh thép chủ quyền độc lập của dân tộc. Bên cạnh bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt sang sảng ngâm trên sông Như Nguyệt, Bình Ngô đại cáo một thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi, ngày nay chúng ta có Tuyến ngôn Độc lập y một ống văn chính luận mẫu mực, nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông.

Tuy chúng ta đã đánh đổ chế đô quân chủ hàng chục thế kỷ, lật nhào được ách áp bức thực dân hàng thế kỷ, Hà Nội đã rụt bay cờ đỏ Sao vàng… Nhưng Lai Châu vẫn nằm trong tay tàn quân Pháp. Hà Giang, Lào Cai, Móng Cái nằm trong tay bọn Tàu tràn vào đó từ tháng 8. Ở Vĩnh Yên, bọn quốc dân Đảng chiếm đóng tỉnh lỵ và nhiều nơi với sự giúp sức của quân đội Nhật. "Hoa quân nhập Việt" sắp kéo vào tước vũ khí của quân đội Nhật, để lấy cớ chiếm luôn Việt Nam này. Ở miền Nam, thì quân đội Anh. Còn tướng Đờ gôn, người giải phóng nước Pháp lại tuyên bố trước sự hoan hô của đám đồng đang hăng say vì chiến thắng "Chúng ta sẽ trở lại Đông Dương vì chúng ta mạnh hơn Hà Nội, chặng đường giải phóng cuối cùng". Bác ở giữa Hà Nội, trong căn buồng 48 Hàng Ngang ấy, phải viết "Tuyên ngôn" như thế.

Bản Tuyến ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử được Bác viết ra cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới: "Hỡi đồng bào cả nước… chúng tôi trịnh trọng tuyên bố với thế giới". Vì viết cho đồng bào nên lời văn bản tuyên ngôn xiết bao xúc động. Vì tuyên bố với thế giới nên giọng văn của bản tuyên ngôn sắc bén, lý lẽ đanh thép. Để tái hiện lại giờ phút thiêng liêng khi Bác đọc bản Tuyên ngôn tại Quảng trường Ba Đình lịch sử 2/9/1945, trong bản trường ca Theo chân Bác, Tố Hữu đã viết nên mấy câu thơ thật chân thực và xúc động:

Hôm nay sáng mồng hai tháng chín 
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình 
Muôn triệu tim chờ… chim cũng nín 
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình 
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!
Người đọc Tuyền ngôn… rồi chợt hỏi:
"Đồng bào nghe Tôi nói rõ không?"
Ôi câu hỏi, hơn mọi lời kêu gọi 
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng!
Cả muốn triệu một lời đáp: "Có”
Như Trường Sơn say gió biển Đông 
Vâng Bác nói, chúng con nghe rõ 
Mỗi tiếng Người mang nặng núi sông
(Thơ Tố Hữu – 517)

Và Người viết nhằm mục đích tuyên bố quyền Độc lập của dân tộc ta và nhằm ngăn chặn âm mưu của Anh, Mỹ, đặc biệt là Pháp nhân danh "Bảo hộ", "Khai hóa", "Đồng minh", hòng cướp lại nước ta một lần nữa.

Trước hết để khẳng định quyền Độc lập tự do của Dân tộc ta là đúng nguyên lý, phù hợp với Công pháp Quốc tế, Bác đã trích hai câu nói nổi tiếng trong bản Tuyến ngôn Độc lập của nước Mỹ 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791 ("Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"…. "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi"). Suy rộng ra, cậu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Ý kiến "suy rộng ra" ấy là một đóng góp võ cùng quan trọng của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới… Một nhà văn hóa nổi tiếng của thế giới đã viết "Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết lấy vận mệnh của mình". Ý kiến suy rộng ra của Bác có thể được xem là tiếng chuông khởi đầu cho thời kỳ bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào những 60, 70 của thế kỷ 20.

Như thế là Bác đã dùng những lý lẽ của chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã ghi trong những bản tuyên ngôn được cả thế giới công nhận và từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn hóa của những dân tộc đó. Cách viết như thế là "vừa khéo léo, vừa kiên quyết". Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mỹ. Kiên quyết vì như ngầm cảnh cáo, liêu họ tiến quân xâm lược Việt Nam, thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên mình, làm vấy bẩn lên lá cờ nhân đạo thiêng liêng của những cuộc cách mạng vĩ đại của họ mà đã được cả thế giới ngưỡng vọng. Ở đây, Bác đã đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật rất hiệu quả trong việc đánh địch là dùng "gậy ông để đập lưng ông". Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng "Những câu Tuyên ngôn trích trên kia vừa là quả táo đối với chúng ta, vừa là quả lựu đạn đối với kẻ thù: Khạc chẳng ra nuốt chẳng vào đối với bọn chúng".

Vả lại cách viết như vậy, phải chăng Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang nhau, đặt ba cuộc cách mạng ngang nhau? Điều đó làm cho ta gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Cáo bình Ngô nổi tiếng, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng Triệu, Đinh, Lý, Trần của nước Nam với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc (Bác Hồ đặt cân xứng bản Tuyên ngôn của ta với bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp cũng phải thôi vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 hầu như đã giải quyết đúng những nhiệm vụ hai cuộc Cách mạng của Mỹ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên ngôn của Bác đã nêu rõ: "Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Vìêt Nam độc lập". Đó cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mỹ đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn Độc lập cũng viết: "Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ công hòa". Đây cũng là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền, dân quyền của Pháp thế kỷ XVIII).

Tiếp đó, để tranh thủ sự đồng tình ủng hô của nhân loại tiến bộ, để đẩy lùi kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta là thực dân xâm lược Pháp, Bác đã nêu lên hàng loạt lý lẽ và lập luận đầy sức thuyết phục về mặt pháp lý nhằm bác bỏ luận điệu của bọn Đế quốc thực dân.

Để vạch trần luận điệu về công lao "khai hóa" của nước Pháp đối với Đông Dương, Bác đã nêu rõ "những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa" của chúng trong 80 nám thống trị nước ta về hai phương diện: chính trị và kinh tế: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ; chia rẽ Tổ quốc ta thành 3 kỳ:

Giặc cướp hết non cao biển rộng 
Cướp cả tên nòi giống tổ tiên 
Lưỡi gươm cắt đất, ngăn niềm 
Núi sông một khúc ruột liền chia ba
(Tố Hữu)

Tắm các phong trào yêu nước và cách mạng của ta trong những bể máu, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc dân ta bằng thuốc phiện, rượu cồn; bóc lột vơ vét đến tận xương tủy làm cho nước ta xơ xác, dân ta tiêu điều, cuối cùng chúng đã gây ra nạn đói khủng khiếp khiến cho từ "Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói". Như vậy là khai hóa đó sao? Sự thực là các ngài đã "khai tử” cả một dân tộc chúng tôi. Để phơi bày luận điệu xảo trá về công lao "Bảo hộ" Đông Dương của Pháp, bản Tuyên ngôn cũng đã chỉ rõ: đó không phải là công mà là tội. Vì chúng chẳng những không bảo hộ mà trong "năm năm chúng đã bán đứng nước ta hai lần cho Nhật".

Và cuối cùng để bác bỏ lời tuyên bố rằng Đông Dương là thuộc địa của chúng, với tư cách là một thành viên của Đồng minh, bản Tuyên ngôn đã chi rõ: Đó là tội. Pháp đã quỳ gối đầu hàng Nhật, kẻ thù của Đồng minh, dâng Đông Dương cho Nhật làm một căn cứ đánh Đồng minh. Pháp không còn tư cách gì là Đồng minh để trở lại đây nữa. Và dân ta đã giành độc lập từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp, giành bằng sự nổi dậy của chính mình, giành trước khi Đồng minh bén mảng đến đây. Luận điểm này đứng về ý nghĩa pháp lý là vô cùng quan trọng. Nó sẽ dẫn đến lời tuyên bố hùng hồn tiếp theo của Bản Tuyên ngôn: "Bởi thế, cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".

Việt Nam đã độc lập, đó là thực tế. Việt Nam phải được độc lập đó là theo các nguyên tắc của Hội nghị Cựu Kim Sơn của các nước Đồng minh "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực tế đã trở thành một nước tự do độc lập" chính là nhấn mạnh hai phía sự và lý ấy, Đồng minh khó bẻ một lý nào.

Còn dân tộc ta thì sao? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng Độc lập tự do hay không? Có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản tuyên ngôn cũng dà đưa ra những lý lẽ đầy tính chất khẳng định.

Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh – dâng Đông Dương cho Nhật, thì nhân dân ta đã anh dung chống Nhật với tư cách là một thành viên của Đồng minh.

Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất hèn nhát, phản động, phi nhân đạo ở hành động "Thẳng tay khủng bố Việt Minh. Thậm chí đến khi thua chạy, còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng" thì nhân dân ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù, khi chúng đã thất thế "Sau cuộc biến động 9/3 Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi trại giam Nhật và bảo vệ tính mạng tài sản cho họ". Một dân tộc đă chịu bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do; đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế: "Dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được Độc lập".

Bản Tuyền ngôn Độc lập của Bác không chỉ thuyết phục lý trí người đọc bằng lý lẽ chặt chề mà còn lay động hàng triệu trái tim độc giả bởi lời văn đầy cảm hứng yêu nước và nhân đạo: khi đanh thép hùng hồn, khi căm giận uất ức, khi lâm ly thống thiết, vì là tuyên ngôn nên vừa khẳng định quyền của ta, vừa vạch trần tội ác của kẻ thù. Trong một đoạn văn ngắn mà Bác lấy lại 13 chữ "Quyền" và sau đó 14 câu, câu nào cũng có chừ "chúng" nặng như búa tạ. Và mỗi chữ "chúng" ấy, mỗi tội ác của chúng ấy như trút xuống những chữ "ta" làm xúc động lòng người… "Một dân tộc…" hai lần nhấn mạnh chữ "gan góc", bốn lần nhấn mạnh chữ "dân tộc", rồi hai câu điệp lại như những nhát dao mỗi lúc chém xuống mạnh hơn "Dân tộc đó… Dân tộc đó". Đọc lên sảng khoái biết chừng nào" (Chế Lan Viên).

Tóm lại, bản Tuyên ngôn Độc lập ngắn gọn của Bác đã trở thành một bài văn chính luận mẫu mực nổi tiếng. Bởi bài văn đã xây dựng được một hệ thống lập luận chặt chẽ, đưa ra được những bằng chứng hùng hồn, không ai có thể chối cãi được. Đằng sau đó là một tầm tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh, người đã tổng kết dược một cách giản dị mà súc tích những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều thế kỷ giành Độc lập Dân tộc, nhân quyền và dân quyền của dân tộc ta và nhân loại.

– Bài làm 2

Ngày 19-8-1945, lực lượng cách mạng và nhân dân Hà Nội đã nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Tổng khởi nghĩa đã lan rộng hầu khắp các tỉnh thành trên cả nước. Ngày 26-8 -1945, từ chiến khu Việt Bắc, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng các vị lãnh đạo của Đảng đã về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Bác đã soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.

Chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên lễ đài của quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đại diện cho Chính phủ lâm thời đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước quốc dân đồng bào, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là một văn kiện lịch sử vô giá, đồng thời là bài văn chính luận xuất sắc, mẫu mực trong nền văn học nước nhà.

Tuyên ngôn Độc lập là bản tổng kết khá đầy đủ về một thời kì lịch sử đau thương nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc ta chống lại ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành chủ quyền tự do, độc lập.

Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: chủ quyền độc lập, tự do của Việt Nam là một chân lí sáng ngời không ai bác bỏ được và tuyên bố thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đồng thời tố cáo âm mưu đen tối của thực dân Pháp muốn tái chiếm nước ta và bày tỏ quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Bố cục bài văn được chia làm ba đoạn:

Đoạn 1: Từ đầu đến… không ai chối cãi được: Nêu nguyên lý chung của Tuyên ngôn Độc lập.

Đoạn 2 : Từ Thế mà… đến từ tay Pháp: Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định thực tế là nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Đoạn 3: Còn lại : Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí và quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Kết cấu của bản Tuyên ngôn hết sức chặt chẽ, hợp lí; cả ba phần đều tập trung hướng về chủ đề của bài văn. Tính lôgic của lập luận được thể hiện như sau: Từ nguyên lí chung làm cơ sở lí luận, dẫn đến những thực tế cần chứng minh để cuối cùng đi đến phần Tuyên ngôn, tức luận điểm chính của bài viết.

Mở đầu bản Tuyên ngôn, tác giả nêu lên nguyên lí chung mang tính khái quát: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đây cũng là luận điểm xuất phát, coi chủ quyền độc lập, tự do, bình đẳng là những thành tựu lớn của tư tưởng nhân loại, đồng thời là lí tưởng theo đuổi hết sức cao đẹp của nhiều dân tộc.

Phần thứ hai của bản Tuyên ngôn, tác giả chứng minh rằng trong hơn 80 năm đô hộ nước ta, thực dân Pháp đã hoàn toàn làm trái với nguyên lí trên. Qua đó, tác giả đanh thép tố cáo tội ác trên nhiều lĩnh vực mà thực dân Pháp đã gây ra đối với nhân dân Việt Nam ; đồng thời khẳng định nhân dân Việt Nam đã đối xử nhân đạo với thực dân Pháp, đã đứng lên giành chính quyền từ tay phát xít Nhật để lập nên nước Việt Nam Dàn chủ Cộng hòa.
Phần kết luận nêu ý nghĩa của bận Tuyên ngôn Độc lập, kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ chủ quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam ; tuyên bố với thế giới về chủ quyền độc lập, tự do và bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam.

Muốn hiểu được nội dung của bản Tuyên ngôn Độc lập, trước hết chúng ta phải tìm hiểu kĩ lãnh tụ Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn Độc lập trong hoàn cảnh nào? Viết cho ai và nhằm mục đích gì?

Sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng phe Đồng minh vô điều kiện. Lúc đó, ở miền Nam, quân đội Pháp nấp sau lưng quân đội Anh vào giải giáp phát xít Nhật. Phía Bắc, quân đội Tưởng chờ ở biên giới sẵn sàng tràn vào nước ta. Trước khi viết bản Tuyên ngôn, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhận định: Mâu thuẫn giữa Anh – Mĩ – Pháp và Liên Xô có thể làm Anh – Mĩ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở tại Đông Dương. Để việc tái chiếm Đông Dương không bị dư luận quốc tế phản đối, Pháp đưa ra một luận điệu xảo trá: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp đã có công “khai hóa” Đông Dương. Phát xít Nhật chiếm Đông Dương nhưng nay đã đầu hàng phe Đồng minh, do đó việc trở lại Đông Dương của Pháp là đương nhiên và hợp lí.

Vì vậy, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ tuyên bố trước quốc dân đồng bào và nhân dân thế giới mà còn nhằm vào bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp để ngăn chặn và đập tan âm mưu xâm lược của chúng, nhất là luận điệu xảo trá của thực dân Pháp. Nội dung của bản Tuyên ngôn Độc lập còn là một cuộc tranh luận quyết liệt giữa dân tộc Việt Nam với những đối tượng ấy.

Mở đầu bản Tuyên ngôn, Hồ Chủ tịch đã trích dẫn những câu văn chứa đựng nội dung thiết yếu trong hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới là Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Thêm vào đó là lời trích dẫn từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp : Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những câu nói của các bản Tuyên ngôn bất hủ không chỉ của riêng nước Pháp, nước Mĩ mà còn là của cả nhân loại. Lời văn trích từ hai bản Tuyên ngôn này là những danh ngôn, nghĩa là những chân lí lớn, không ai có thể bác bỏ được.

Việc viện dẫn những danh ngôn nói trên để mở đầu cho bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam là một lập luận vừa kiên quyết vừa khôn khéo ; có thể gọi đó là thủ pháp lấy gậy ông đập lưng ông rất đích đáng của tác giả.

Cái tài tình của Hồ Chủ tịch là dùng ngay lí lẽ của đối phương để ràng buộc đối phương, dồn Pháp và Mĩ vào cái thế không thể không công nhận chủ quyền độc lập, tự do của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Trích dẫn những lời văn trong hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng, về phương diện nào đó là cách trực tiếp tranh luận với Mĩ và Pháp về chủ quyền độc lập tự do của mỗi quốc gia, dân tộc, về quyền sống của mỗi con người. Bên cạnh đó, Hồ Chủ tịch muốn chặn đứng sự bác bỏ của đối phương. Nếu cố tình bác bỏ thì có nghĩa là họ đã phủ nhận lí lẽ của chính tổ tiên họ. Suy ngẫm về tình thế lúc bấy giờ, chúng ta mới hiểu sâu thêm về chủ ý thâm thúy của Hồ Chủ tịch.

Trong cuộc tranh luận giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, thực dân xâm lược thì vấn đề chính là chủ quyền tự do độc lập. Vì thế, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân đặt ra trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ, nước Pháp, tác giả bản Tuyên ngôn Độc lập đã suy rộng ra về quyền tự do, bình đẳng của các dân tộc khác trên thế giới. Nhưng không dừng ở đó, Bác đã dùng lí lẽ sắc bén, khoa học để nâng cao, mở rộng vấn đề lên thành chủ quyền độc lập, tự do của các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tư tưởng đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ vào nửa sau thế kỉ XX.

Mặt khác, việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn kia còn có nghĩa là Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó cách mạng Việt Nam đã cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của cả hai cuộc cách mạng Pháp và Mĩ. Qua đó, Bác muốn khẳng định: “Mục đích cao cả của cách mạng Việt Nam, của cách mạng Mĩ và Pháp là vì hạnh phúc của con người. Chúng ta chiến đấu vì hạnh phúc của con người”.

Bản Tuyên ngôn Độc lập nêu rõ : Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Bản Tuyên ngôn cũng viết: Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.

Hồ Chủ tịch đã đặt bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ngang hàng với tầm cỡ hai bản Tuyên ngôn của hai cường quốc trên thế giới, có nghĩa là khẳng định vị trí chính trị của đất nước ta đối với các nước trên thế giới và khẳng định chủ quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Đồng thời nhấn mạnh rằng: Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Nấp sau lưng phe Đồng minh, được Mĩ ủng hộ, thực dân Pháp lăm le tái chiếm Việt Nam, hòng cướp nước ta một lần nữa. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã vạch rõ ý đồ đen tối đó và tố cáo trước dư luận tội ác tày trời của chúng trong hơn 80 năm nô dịch nước ta, biến nước ta thành thuộc địa béo bở của chúng. Chỉ hai chữ Thế mà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phơi trần bản chất xấu xa, vô nhân đạo của quân xâm lược Pháp, đi ngược lại với những tuyên bố bất hủ về quyền tự do, bình đẳng.

Khi xâm chiếm nước ta, thực dân Pháp luôn lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái và chiêu bài “khai hóa”, “bảo hộ” Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã lật tẩy bản chất của chúng bằng những lí lẽ chặt chẽ và đanh thép. Hồ Chủ tịch nghiêm khắc kết án chúng trên từng lĩnh vực. Chúng kể công “khai hóa”, bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt chủng:

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cổn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.

Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng giữ độc quyền về in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Đặc biệt, Hồ Chủ tịch nhấn mạnh sự phản bội của thực dân Pháp. Một mặt, chúng luôn kể công “khai hóa”, “bảo vệ” nước ta, nhưng mặt khác, chúng hèn nhát quỳ gối đầu hàng dâng nước ta hai lần cho phát xít Nhật (từ 1940 đến 1945), khiến dân ta điêu đứng vì một cổ hai tròng và dẫn tới hậu quả thảm khốc là năm Ất Dậu 1945, chỉ tính từ miền Bắc vào tới Quảng Trị đã có hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Lời văn trong đoạn này sục sôi căm giận trước tội ác trời không dung, đất không tha của thực dân Pháp và bộc lộ thái độ căm phẫn, mỉa mai, châm biếm sắc sảo của Hồ Chủ tịch trước bản chất đê hèn của chúng:

Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thi bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dàn ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

Thực dân Pháp nhân danh phe Đồng minh đã chiến thắng phát xít Nhật để giành lại Đông Dương ; bản Tuyên ngôn tố cáo Pháp phản bội Đồng minh, đầu hầng Nhật, đàn áp cách mạng Việt Nam.

Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

Như vậy rõ ràng là vì hèn nhát, Pháp đã tự tước bỏ vai trò “bảo hộ” của chúng ở Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Từ đó, Hồ Chủ tịch có đủ cơ sở thực tiễn để đưa ra nhận định sắc bén về một sự thật lịch sử:

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa…

Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

Sự thật không thể chối cãi ấy được khẳng định mạnh mẽ trong Tuyên ngôn độc lập và nó có ý nghĩa rất quan trọng : Việt Nam không bị ràng buộc bởi bất cứ nguyên tắc pháp lí quốc tế nào với thực dân Pháp ; từ đó bác bỏ quyền trở lại Việt Nam của Pháp.

Chì trong một câu văn ngắn gọn, từ ngữ tuyệt đối chính xác, Bác đã khái quát một cách chính xác tình thế lịch sử nước ta lúc bấy giờ : Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Đó là bước sụp đổ tất yếu của chế độ thực dân, phát xít, phong kiến trước khí thế cách mạng giải phóng của nhân dân ta, trước xu thế chung của cách mạng thế giới.

Tự hào, sảng khoái biết bao khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Và Bác đại diện cho toàn dân tộc Việt Nam hùng hồn tuyên bố từ nay thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Điệp từ xóa bỏ được lặp lại nhiều lần càng làm tăng tính phủ định của lập luận: Pháp không còn vai trò gì ở đất nước này. Cho nên, nếu thực dân Pháp xâm chiếm nước ta một lần nữa thì chúng phải nhận những đòn trừng trị đích đáng bởi : Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.

Bản Tuyên ngôn vạch rõ bản chất xấu xa, thâm độc của thực dân Pháp và bày tỏ quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền dân tộc, đó cũng là một cách tấn công đối phương rất có hiệu quả trước công luận, đồng thời tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với dân tộc Việt Nam.
Tiếp theo, bản Tuyên ngôn buộc các nước Đồng minh phải công nhận nền độc lập của đất nước Việt Nam. Lí lẽ ở đoạn văn này vừa đanh thép hùng hồn, vừa thấu lí đạt tình:

Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập !

Đó là chân lí, có nghĩa là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chủ tịch trịnh trọng tuyên bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới và khẳng định một lần nữa quyết tâm bảo vệ bằng được nền độc lập tự do : Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Tuyên ngôn Độc lấp có tầm cỡ lớn lao, tiếp nối tinh thần của áng thiên cổ hùng văn là Đại cáo bình Ngô của nhà chính trị, quân sự, ngoại giao lỗi lạc Nguyễn Trãi thế kỉ XV. Đất nước ta, dân tộc ta mãi mãi tự hào về những người anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh cùng những bản Tuyên ngôn nổi tiếng muôn đời như Đại cáo bình Ngô và Tuyên ngôn Độc lập. Có ý kiến cho rằng bản Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn, giống như bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi ngày xưa. Hai tác phẩm thống nhất ở chỗ đều là những bản tổng kết chiến thắng, là lời tuyên bố khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta và đều tràn đầy khí thế hào hùng từ nội dung tư tưởng cho đến cách hành văn. Tuy cùng có yếu tố chính luận nhưng Đại cáo bình Ngô chủ yếu dùng hình tượng nghệ thuật để thuyết phục, còn Tuyên ngôn Độc lập dùng lập luận chặt chẽ, đanh thép và các luận cứ hùng hồn. Tính logic khoa học kết hợp với sự hiểu biết uyên bác, khả năng lập luận sắc sảo hòa quyện với cảm hứng sôi nổi, nhiệt thành của lòng yêu nước, tự hào dân tộc của Hồ Chủ tịch đã tạo nên một tác phẩm chính luận mẫu mực, bất hủ.

Cách đây hơn năm trăm năm, sau khỉ quét sạch quân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi đã sang sảng đọc bài Đại cáo bình Ngô trước muôn dân, tự hào tuyên bố: Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt từ đây, Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn. Giọng văn lúc thâm trầm, lúc đanh thép, lúc phấn khích bừng bừng như triều dâng bão nổi, thật xứng với lời khen là một áng thiên cổ hùng văn có giá trị muôn đời. Năm trăm năm sau, bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một mốc son đánh dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ phong kiến thống trị đất nước ta hàng ngàn năm; chấm dứt chế độ thuộc địa của thực dân Pháp kéo dài gần một trăm năm; mở ra một kỉ nguyên mới của chế độ Dân chủ Cộng hòa ở Việt Nam.

Từ khóa từ Google

0