28/05/2017, 15:14

Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến

Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến – Bài làm 1 Mùa thu, mùa của hoa sữa thoảng thoảng , mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được các nhà thơ yêu và đưa vào trong những trang thơ nhiều nhất.Với Nguyễn Thỉnh nhẹ nhàng mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận ra hương ổi – ...

Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến – Bài làm 1 Mùa thu, mùa của hoa sữa thoảng thoảng , mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được các nhà thơ yêu và đưa vào trong những trang thơ nhiều nhất.Với Nguyễn Thỉnh nhẹ nhàng mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận ra hương ổi – phả vào trong gió se- sương chùng trình qua ngõ -hình như thu đã về”.Nhưng mùa thu trong mắt Nguyễn Khuyến thì lại khác.Qua bài thu ...

– Bài làm 1

Mùa thu, mùa của hoa sữa thoảng thoảng , mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được các nhà thơ yêu và đưa vào trong những trang thơ nhiều nhất.Với Nguyễn Thỉnh nhẹ nhàng mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận ra hương ổi – phả vào trong gió se- sương chùng trình qua ngõ -hình như thu đã về”.Nhưng mùa thu trong mắt Nguyễn Khuyến thì lại khác.Qua  bài thu điếu ta thấy đằng sau cảnh thu tĩnh lặng thì lại là nỗi niềm tâm sự sâu kín của người thi sĩ

Thu điếu viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú ,hầu hết tám câu thơ đều tả cảnh , hình ảnh con người chỉ xuất hiện ở hai câu cuối.Cảnh của bài thơ vẫn là trời , nước gió, trúc .. những hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Hình ảnh “ao thu” miêu tả với tính từ “lạnh lẽo”.Có lẽ cái lạnh của mùa thu cũng ngấm dần vào làn nước và ngấm dần vào tâm hồn nhà thơ.Tính từ “trong veo” miêu tả làn nước, không gian tĩnh lặng.Nước trong veo chứ không phải là lăn tăn gợn sóng, hai âm “eo” được lặp liên tiếp ở câu trên và câu dưới khiến cho cảm giác về sự tĩnh lặng càng trở nên thật hơn

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Không gian lạnh lẽo của mùa thu ấy xuất hiện chiếc thuyền cô đơn lẻ loi.Tác giả dùng từ “bé tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng trở nên nhỏ bé hơn,đơn độc hơn.Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.Thật đúng cảnh dưới con mắt nhà thơ sao mà buồn tẻ, sao mà cô đơn đến lạ.Cuộc sống bây giờ tĩnh lặng đến nghẹt thở chẳng có âm thanh để chứng tỏ cuộc sống ồn ã vẫn đang tiếp diễn

Sóng biêc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Bức tranh thu tiếp tục hiện lên hình ảnh “Sóng và lá vàng”.Mọi vận động  đều khẽ khàng và nhẹ nhàng như thế “sóng lăn tăn gợn tí”, “lá vàng đưa vèo”.Tác giả thật tinh tế về việc sử dụng từ tượng hình và từ tượng thanh.Cảnh vật miêu tả theo chiều hướng lấy động tả tĩnh, dù bức tranh ấy có âm thanh nhưng âm thanh khẽ khàng quá lại càng toát lên vẻ tĩnh lặng của mùa thu

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Không gian được mở rộng ra cả tầm cao và tầm rộng. “Tầng mây lơ lửng” mây cứ chùng chình lơ lửng , mây cũng chẳng muốn bay.Cuộc sống chẳng hối hả hay tâm hồn nhà thơ đang sâu đầy tâm tư.Bầu trời thu “xanh ngắt”, màu sắc đậm nét của bức tranh thu,mỗi nét vẽ của Nguyễn Khuyến đếu rất dứt khoát để tả cảnh vật “ đưa vèo”, “hơi gợn tí”, “xanh ngắt”.Mây trời đơn điệu và tẻ nhạt.Còn ngõ trúc “quanh co”,“vắng teo”.Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng tác giả lại còn sử dụng “ vắng teo” thì có nghĩa không gian thu ấy không âm thanh ,không chút cử động,không bóng người chỉ có màu sắc ơ thờ không hòa quyện

Bởi thế hai câu thơ cuối bài là một sự trống vắng, là nỗi cô đơn đến thắt lòng

Tựa Gốm ôm cần lâu chẳn được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Đến đây hình ảnh con người đã xuất hiện nhưng lại với tư thế “ ngồi tựa gối”, “ôm cần”. Trong trạng thái trầm tư và sâu cảm, cảnh vật đã cô đơn con người lại càng cô đơn hơn.Nhà thơ ngồi câu lâu chẳng được.Từ “cá đâu” là cách hỏi mơ hồ  không định hướng ,nhưng cũng có thể là sự ngỡ ngàng trong lòng người.Nhà thơ chìm sâu trong suy nghĩ miên man,mất cảm giác ở thực tại nên mới “cá đâu đớp động dưới chân bèo”.Nhà thơ muốn tìm sự thư thái trong tâm hồn nên mới đi câu.Nhưng cảnh vật tĩnh lặng đến ngẹt thở lại càng làm nhà thơ chìm sâu trong nỗi cô đơn.

Cảnh thu đẹp và buồn trong bài thu điếu đã được Nguyên Khuyến miêu tả thật khéo léo và tinh tế .Cảm xúc , tâm tư của nhà thơ được dồn nén qua từng câu thơ, trong cảnh vật thu ấy.Thu điếu đi vào lòng người nhẹ nhàng và buồn man mác, khiến người đọc biết thêm về làng quê Việt Nam với những nét đẹp khác.

– Bài làm 2

Mùa thu luôn là đề tài không bao giờ cạn kiệt cảm xúc đối với thi sĩ. Một Nguyễn Đình Thi phơi phới, rộn ràng, vui tươi trong “Đây mùa thu tới”, một Hữu Thỉnh tinh tế, nhẹ nhàng trong “Sang thu”…Chắc hẳn Nguyễn Khuyến sẽ là nhà thơ để lại cho người đọc cảm nhận độc đáo mà gần gũi nhất qua chùm thơ thu “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”. Trong đó bài thơ “Thu điếu” là bài thơ gần gũi, bình dị nhất khi tác giả lột tả được vẻ đẹp yên bình ở vùng quê Bắc Bộ.

Với ngôn từ giản dị và cái nhìn tinh tế, Nguyễn Khuyến đã thổi linh hồn vào mùa thu, cảnh thu, sắc thu và khí thu. Một bức tranh thu nơi làng quê thanh bình, yên ả.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc cần câu bé tẻo teo

Môt không gian thu hẹp nhưng dường như mùa thu đang bao trùm lấy. Tác giả cảm nhận rõ rệt nhất mùa thu ở nước mùa thu. Màu nước “trong veo” phảng phất u buồn và lạnh lẽ. Có lẽ đó chính là đặc trưng của mùa thu xứ Bắc, hiếm có nơi nào có được. Hình ảnh “chiếc cần câu” nhỏ bé, một mình giữa ao hẹp càng thu hẹp không gian hơn. Cụm từ “bé tẻo teo” phần nào đã lột tả được sự hữu hạn của không gian. Sự hòa hợp giữa cảnh vật khi thu về hết sức bình lặng.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tý

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Sự trầm tĩnh, yên lặng ở hai câu thơ đầu tiên đã không còn nữa. Đến hai câu thơ này có lẽ đường nét và âm thanh của mùa thu đang len lỏi vào phá vỡ sự thanh tĩnh của không gian. Sự chuyển động tinh vi, nhẹ nhàng của sóng lăn tăn nơi mặt hồ đánh dấu sự chuyển động của mùa thu. Lá vàng là hình ảnh đặc trưng của mùa thu. Từ “vèo” ở cuối câu thơ có ý chỉ tốc độ nhanh, thoáng qua, không kịp nắm bắt.

Bức tranh mùa thu với không gian hẹp nơi vùng quê bắc bộ và sự chuyển động tinh tế nhẹ nhàng có lẽ đã làm xiêu lòng tác giả.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tác giả đã bắt đầu mở rộng không gian thu, không còn thu hẹp của cái ao thu lạnh lẽo nữa mà đã lan tỏa lên đến tận trời cao, có mâu “lơ lửng” trôi. Nét thu chấm phá lên nền trời một màu xanh ngắt đặc trưng khiến cho lòng người khó cưỡng lại. Mùa thu có chút gì đó ảm đạm và vắng vẻ. Những làng nhỏ, quanh co không bóng người. “Khách vắng teo” với cách gieo vần “eo” càng gợi tả sự trầm tĩnh đến cùng cực. Bóng dáng của con người cũng không thấy. Một sự tĩnh lặng khiến cho tác giả trầm ngâm.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Đến hai câu thơ cuối thì thực sự đã hiển hiện lên “chủ nhân” của chiếc cẩn câu bé tẻo teo ở hai câu thơ đầu tiên. Mọi thứ đều tĩnh lặng, mùa thu cũng tĩnh lặng khiến tác giả cảm thấy mình đơn độc, lạc nhịp. Tư thế “tựa gối” như đang tự thu nhỏ mình lại để phù hợp với không gian mùa thu bé nhỏ, chật hẹp ở một vùng quê vắng vẻ.

Bỗng nhiên từ “đớp” ở cuối câu thơ dường như làm náo động cả bài thơ. Đây chính là thủ pháp lấy động tả tĩnh cực kỳ đắc điệu của nhà thơ. Hình ảnh “cá đớp” ấy khiến cho tác giả giật mình khi đang chìm đắm trong cảnh sắc mùa thu u buồn, nó đã đánh thức suy nghĩ, đánh thức thực tại. Cá đớp có lẽ là một hình ảnh ẩn dụ cho những biến động của xã hội thời bấy giờ, dân tình loạn lạc, đất nước lầm than. Qua đây người đọc có thể thấu hiểu được nỗi lòng của tác giả đối với dân với nước nhưng bất lực, không biết bày tỏ cùng ai.

Bài thơ “Thu điếu” thực sự là một kiệt tác về mùa thu. Ông đá vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh mùa thu xứ Bắc tuyệt đẹp và ẩn sau đó chính là nỗi niềm tâm sự với dân với nước.

– Bài làm 3

Chùm thơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm, Thu điếu của Nguyễn Khuyến tiêu biểu cho thiên nhiên mùa thu của đồng bằng Bắc Bộ. Trong đó quen thuộc và gần gũi hơn cả là bài Thu điếu. Đọc bài thơ, ta thấy hiện lên trước mắt khung cảnh một làng quê nghèo vùng đồng chiêm trũng với những hình ảnh đơn sơ mà sống động:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Nguyễn Khuyến tả mùa thu trong một không gian hẹp: chiếc ao thu nhỏ bé, làn nước, trong veo in bóng mây trời. Tiết thu, khí trời se lạnh làm cho màu nước dường như trong hơn, làn nước sâu hơn và lạnh lẽo hơn, Trên mặt ao là chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Ao nhỏ, thuyền xinh như hoà hợp với nhau, tạo nên một cảnh trí êm đềm, tĩnh lặng:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Cảm nhận tinh tế của nhà thơ đã phát hiện ra cái lạnh se se trong cơn gió thoảng. Ao hẹp, gió nhẹ thổi làm cho mặt nước gợn sóng lăn tăn. Dăm chiếc lá vàng lìa cành, se sẽ đưa theo chiều gió. Không gian yên lặng đến mức nghe rõ cả tiếng rơi vèo rất khẽ của chiếc lá liệng trên mặt ao. Màu nước trong veo, thuyền câu bé tẻo teo, sóng hơi gợn tỉ, lá khẽ đưa vèo… Tất cả dường như đều thu nhỏ lại, lắng sâu và chất chứa suy tư.

Từ khung cảnh Ao thu nhỏ hẹp trên mặt đất, nhà thơ nâng cao, mở rộng thành không gian khoáng đạt, cao vời vợi:

Tầng mây lơ lừng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Ta lại bắt gặp hinh ảnh trời thu xanh ngắt như trong bài Thu vịnh, sắc xanh đặc trưng – biểu tượng của mùa thu. Gió nhẹ nên mây lơ lửng, gẩn như trong trạng thái đứng yên. Nét thu trên mặt nước, nét thu trên bầu trời và đây là nét thu trên mặt đất: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Những con đường nhỏ trong thôn xóm hai bên trồng tre, trồng trúc, vắng bóng người qua lại, dường như cũng chìm trong yên lặng. Yên lặng tuyệt đối bao trùm lên tất cả. Chính cái yên lặng chất chứa đó lại đồng điệu với tâm hồn nhà thơ và gợi lên những rung cảm tịnh tế trong lòng người đọc.

Hai cấu kết là bức chân dung tự hoạ của tác giả:

Tựa gối, ôm cần lảu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Tư thế con người cũng như cố thu nhỏ lại cho tương xứng với cảnh vật chung quanh và cái dáng ngồi ấy phần nào thể hiện tâm trạng nhà thơ. ông không thể nào nguôi ngoai trước thế sự – điều mà ông muốn mượn việc câu cá để giải khuây mà không sao khuây được. Một tiếng cá đâu đớp động mơ hồ dưới chân bèo đã làm cho nhà thơ khẽ giật mình, trở về thực tại – một thực tại đầy xót xa, day dứt đối với tâm hồn trĩu nặng nỗi niềm dân nước.

Bài thơ Thu điếu là mùa thu, hồn thu của làng cảnh Việt Nam. Không cần những hình ảnh cầu kì, ước lệ trong văn chương, chi vài cảnh vật đơn sơ, quen thuộc, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thu dân dã, mộc mạc mà không kém phần sinh động, đặc sắc. Cái hay của bài thơ là sự vắng lặng, mênh mông khiến cho mọi thứ dường như thu nhỏ và ẩn kín vào trong. Không gian mùa thu của đồng bằng Bắc Bộ là vậy. Tâm trạng của nhà thơ ngụ trong chính cái cảm giác tinh vi ấy.

– Bài làm 4

“Thu điếu” là một trong ba bài thư viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến rất nổi tiếng xưa nay. Mùa thu đã thú vị, mùa thu ngồi câu cá lại càng thú vị hơn. Niềm thú vị ấy đã trở thành cảm hứng cho một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến giới thiệu và hạn định khái quát nơi phát sinh cảm hứng với câu phá đề:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Địa điểm là ao, thời gian là thu, một mùa thu. Hai từ “ao”, “thu” được kết hợp thành một nghĩa “ao thu”, một thứ ao riêng chỉ đến mùa thu mới có những nét ấy. Cảm xúc ban đầu của Nguyễn Khuyến về ao thu được phát hiện nhờ tính chất “lạnh lẽo” và “nước “trong veo”. Chính nhờ vậy mà lòng nhà thơ tràn trề cảm hứng. Sau một mùa hạ nóng nực, kéo dài, cái “lạnh lẽo” của mùa thu với bao cảm xúc, cái lạnh nhưng lại có “nước trong veo”. Ao lạnh, nước yên, nước trong nhìn tận đáy. Trời cũng lặng gió, bầu trời cũng phải thật trong, nước mới có thể “trong veo” như thế. Cái “ao” ở đây gợi lên một cái gì rất thân quen bình dị trong cuộc sống ở nông thôn.

Trên cái nền ấy là hình ảnh người ngồi câu cá.

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Người ngồi câu cá không phải ngồi trên bờ như những người khác ngồi mà ngồi trên “một chiếc thuyền câu”, vì thế tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn. Nhà thơ lại ngồi trên một chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” nghĩa là rất nhỏ có thể đó là một thứ “thuyền thúng” rất phổ biến ở vùng quê miền Bắc, vừa vặn cho một người ngồi. Vừa thực mà vừa mơ, cả không gian như co lại trong cái lạnh mùa thu và trên chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Nhờ vậy nhà thơ đã nhận ra nhiều vẻ của mùa thu:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Trong bốn câu thơ trên, hai câu thực là cảnh gần, hai câu luận là cảnh xa. Cảnh gần thì có “sóng biếc gợn” và lá vàng đưa tiếng và hình cực nhỏ cuối hai câu nổi lên hai từ “tí”, “vèo”, một từ diễn tả sự cực nhỏ của hình khối, một từ diễn tả sự cực nhỏ, của âm thanh. Vẻ tĩnh lặng của mùa thu cứ tăng dần qua từng cấp độ. Không gian động mà tĩnh ở hai câu luận, cảnh thu như xa hơn một chút, cảnh ngoài giới hạn của ao thu, phía trên là bầu trời mùa thu, trước mắt là làng xóm mùa thu. Trời thu xanh, xóm làng thì vắng vẻ. Trời thu thì xanh ngắt, đó cũng là điểm đặc trưng khơi gợi của trời thu.

Từng mây lơ lửng ở bên dưới là để làm rõ thêm trời xanh ngắt. Một cái nhìn và cảm thật tinh tế! Cảnh xóm làng thì vắng vẻ gần như tuyệt đối: “vắng teo”. Hai câu kết con người mới xuất hiện, chính là tác giả bài thơ:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được.

Một tư thế có thể ngồi lâu để mà vừa câu cá, vừa trầm tư, thưởng thức cái cảnh đẹp của mùa thu. Nhưng ngồi đã lâu mà vẫn chưa có cá. Hình như nhà thơ chỉ một điều gì đó mà chính mình cũng không rõ.

Thế rồi “Cả đâu đớp động dưới chân bèo”

Một câu kết mơ hồ mà cũng như có thực: Có thể cá cắn câu mà cũng có thể không. Cái rung động nhẹ nhành ấy khiến cả không gian mùa thu như lắng đọng lại.

“Thu điếu” với sự điêu luyện trong việc sử dụng tiếng nói dân tộc uyển chuyển, phong phú đạt đến mức tuyệt đối trong sáng và tinh tế. Nhờ đó đã diễn tả được vẻ đẹp giản dị thực sự của mùa thu ở những làng quê Việt Nam, đồng thời trong “Thu điếu” ta cũng nhận ra một vẻ đẹp của tâm hồn trong sáng tinh tế, mà giản dị, chân thành, gắn bó với quê hương và dân tộc.

– Bài làm 5

Mùa thu là cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Riêng Nguyễn Khuyến đã có một chùm thơ thu vô cùng đặc sắc: Thu vịnh, Thu điểu, Thu ẩm. Nhà thơ lấy cảnh thu, tình thu mà nói lòng mình vậy. Và cùng qua thơ thu ta thấy hiện lên một phần đáng trân trọng trong con người Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ Thu điếu – Câu cá mùa thu, Nguyễn Khuyến hiện lên với tấm lòng sâu nặng nghĩa tình đối với đất nước.

Thơ thu xưa chẳng khi nào vui cả. Nhắc đến thơ thu là nhắc đến những tâm trạng u hoài, man mác. Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy.

Thơ gợi tình người mà người buồn thì thơ vui sao được? Bài thơ ra đời khi Nguyễn Khuyến đã quá bất mãn với xã hội mà lui về ở ẩn ở quê nhà. Xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến cướp đi quyền tự chủ của nước nhà, gieo rắc bao đau thương mất mát cho đất nước, con người Việt Nam. Buồn vì thảm cảnh”, bất hợp tác với thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến thể hiện khí tiết học ông ngư về quê câu cá. Bài thơ Câu cà mùa thu bước ra từ một tâm sự, một nỗi niềm như thế để giãi bày với hồn thiêng sông núi quê hương một tấm lòng yêu nước thiết tha, day dứt.

Điều dễ thấy trong Câu cá mùa thu là cảnh tuy buồn nhưng vô cùng đẹp đẽ. Điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước ưu ái với thiên nhiên của thi nhân.
Bức tranh mùa thu hiện lên trong trẻo, xinh xắn làm sao.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo 
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo 
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí 
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo 
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt 
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Cái se lạnh của mùa thu làm làn nước ao “lạnh lẽo” “trong veo”. Câu thơ không chỉ nói đến cái lạnh mà còn nhắc đến cái tĩnh lặng, cái vắng vẻ, cái buồn buồn của khí trời, của cảnh vật. Phải rồi, “ao thu lạnh lẽo” thì mọi loài cũng chỉ muốn lặn mình xuống đáy, đâu muốn tung tăng bơi lội nô đùa? Vì thế, làn nước “trong veo” – trong trẻo, tĩnh lặng, cái trong có hình có khối. Tưởng đôi mắt Thúy Kiều – “làn thu thủy” – cũng chỉ trong đến thế.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh cái ao làng mùa thu – một hình ảnh hết sức quen thuộc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Và từ đây, mọi cảnh vật trong bài thơ đều xoay quanh cái ao ấy, lấy cái ao làm điểm nhìn nghệ thuật. Hơi thu man mác, lạnh lẽo, trầm buồn từ làn nước mùa thu “trong veo” đang lan tỏa thấm dần vào từng hơi gió.

Trên nền ao thu vốn đã rất nhỏ là “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Chỉ là “một chiếc” thôi không hơn. số từ “một” khiến chiếc thuyền câu bơ vơ đơn độc. Mà “một chiếc thuyền câu” lại “bé tẻo teo” nên càng mong manh tội nghiệp.

Điểm xuyết cho bức tranh thu xinh xắn là gợn “sóng biếc” là chiếc lá vàng. Tưởng rằng thêm vào sẽ bớt vắng vẻ đìu hiu nhưng ở đây, làn sóng biếc, chiếc lá vàng càng gợi cái nhỏ bé mong manh của sự vật. Bởi “sóng biếc” thì “theo làn hơi gợn tí”, chỉ “hơi” gợn, chăm chú lắm mới thấy, mà còn là “gợn tí” một chút cỏn con… Còn lá vàng thì “đưa vèo” như chỉ tạo ra một vệt sáng vàng rồi nhanh chóng nằm lặng im nơi nào đó.

Chiếc “lá vàng” ấy là lá gì? Là lá trúc, lá tre chăng? Có thể lắm bởi bờ ao đồng bằng Bắc Bộ thường có những lũy tre xanh tỏa bóng êm dịu. Càng có thể bởi ở hai câu sau nhà thơ đã viết:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt 
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Không gian được mở rộng lên chiều cao, sang bề rộng. Vậy nhưng cũng không bớt vắng vẻ cô đơn. Mây trắng “lơ lửng” giữa không trung không về với trời; chẳng sà xuống thấp, lẻ loi trôi dạt trong bao la. Sắc trời “xanh ngắt” – xanh rất đậm, xanh như có hình khối, sắc xanh tuyệt đối ấy càng khẳng định cái đơn côi lẻ loi của sự vật.

Trời xanh cao mà buồn quá. Hạ tầm nhìn xuống thấp mong chờ sự giao hòa đồng cảm nhưng nhà thơ chỉ thấy “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Đường làng vốn đã rất nhỏ nay lại quanh co khúc khuỷu, tưởng như một dải lụa cố xoắn mình tự thu nhỏ lại. Đường vắng vẻ, vắng lắm, “vắng teo” Nếu chẳng “vắng teo”, dẫu có bóng người có lẽ củng nhỏ bé, đơn độc lắm.

Một bức tranh thu xinh xắn hài hòa. Sự vật gì cùng thu mình lại để nhỏ hơn, để hoà hợp hơn với khuôn hình của sự vật khác. Đặc biệt, cách dùng vần “eo” rất tinh tế: “lạnh lẽo” “trong veo” “tẻo teo” “đưa vèo”… , ở đây có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức: vần “eo” khiến cảnh vật càng bé nhỏ, mong manh đơn côi hơn. Bức tranh thiên nhiên xinh xắn, đẹp đẽ thể hiện một tâm hồn thi nhân tinh tế, nhạy cảm. Hơn thế còn bộc lộ một con người đồng cảm với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết.

So sánh thiên nhiên trong Câu cá mùa thu với những bài thơ thu khác ta còn trân trọng hơn tấm lòng Nguyễn Khuyến. Thơ xưa tả mùa thu thường mượn lá ngô đồng, rừng phong đỏ để gợi tứ gợi tình “Một chiếc lá ngô đồng rụng/ Ai cũng biết là mùa thu đã về” “Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san”. Bích Khề của “thơ mới” cũng vần gò thơ theo khuôn như vậy.

Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông.

Ai cũng biết “lá ngô đồng” “rừng phong đó” là hình ảnh ước lệ tả mùa thu, hai hình ảnh ấy tượng trưng cho mùa thu Trung Quốc. Các nhà thơ trung đại Việt Nam theo lối “tập cổ” mà vẫn ưu ái những hình ảnh ấy. Thiên nhiên trong bài thơ của Nguyễn Khuyến thì khác. Không một chút vay mượn, chỉ có cái thuần cảnh vật quê hương. Ao làng, bụi trúc, lá vàng rơi… những hình ảnh ấy giản dị, quen thuộc với người dân đồng bằng Bắc Bộ lắm. Đưa chúng vào thơ, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên quê nhà tha thiết, lòng tự hào về cảnh sắc quê hương. Tình yêu ấy cảm động ở việc đã phá bỏ những lề lối ước lệ bền chắc xưa cũ.

Chưa hết, một bài thơ Đường luật năm mươi sáu chữ không một chữ nào không thuần Việt. Chẳng ai -tìm được một từ Hán Việt nào, nhà thơ hoàn toàn dùng ngôn ngữ của đất nước để vẽ nên bức tranh tuyệt mĩ về quê hương. Chẳng những vậy, nhà thơ còn vận dụng rất tài tình vần “eo” – vần thơ rất đặc biệt, nó nôm na xa lạ với thơ cổ nhưng lại đạt hiệu quả nghệ thuật rất cao. Sự tài tình trên chỉ có thể có ở một nhà thơ yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng dân tộc, tự hào về đất nước mình.

Thiên nhiên, đẹp đẽ nhưng tầng sâu của nó là một nỗi buồn, một tâm sự của thi nhân. Cảnh đẹp nhưng sao buồn thế! Mọi vật đều hững hờ, đơn côi đến vô tình. Nguyễn Du đã có một câu thơ thật hay “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây, cảnh thu cũng vậy. Nguyễn Khuyến buồn thì có cớ gì đế cảnh vui? Cảnh buồn, cảnh cô đơn bởi nhà thơ cũng đang mang nặng cảm giác ấy giữa cuộc đời biến động. Bất mãn với xã hội, khinh bạc chốn quan trường nhưng vẫn nậng lòng lo cho an nguy của Tổ quốc. Vậy nên, dầu lui về ở ẩn tâm hồn nhà thơ vẫn canh cánh một niềm riêng.

Có lẽ vì nỗi buồn lớn quá, nhà thơ không thể gửi gắm mãi vào thiên nhiên. Hai câu cuối bài thơ hạ xuống cùng là lúc bài thơ vén lên bức màn để lộ một con người với niềm ưu tư day dứt:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được 
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Tư thế “tựa gối ôm cần” là tư thế mang nặng tâm trạng. Chờ hoài không có cá nên buồn bã, thất vọng “tựa gối” nhưng còn mong mỏi đợi chờ nên vẫn “ôm cần”. Nhưng có phải thi nhân đang câu cá? Nếu phải, tại sao lại có cảm nhận mơ hồ “cá đâu đớp động dưới chân bèo?”. Thực ra, Nguyễn Khuyến câu cá đâu phải vì muốn câu cá. (Thế nên mới có cái ngơ ngác nhìn quanh: cá ở đâu đớp động dưới chân bèo vậy? – Chăm chú câu cá sẽ không có chi tiết này). Nhà thơ làm ông ngư chỉ vì muốn lánh đời. Nhưng cuộc đời ở ẩn không làm tan đi nỗi ưu tư với đời. Câu cá mà không tập trung câu cá, tâm hồn vẫn chơi vơi nơi đâu không ở lại nơi cái ao làng nhỏ bé này.

Thi nhân ưu tư điều gì? Ưu tư về vận nước, ưu tư về lẽ đời. Niềm ưu tư dai dẳng, khắc khoải dứt áo ở ẩn vẫn không nguôi trăn trở. Nguyễn Khuyến, một con người có tấm lòng yêu nước sâu nặng.

Con người Nguyễn Khuyên qua Câu cả mùa thu hiện lên ở nhiều góc cạnh: yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng và tự hào về dân tộc, luồn trăn trở băn khoăn với vận nước, với cuộc đời… Tựu trung lại, bài thơ đã thể hiện một tâm hồn yêu nước khắc khoải, trăn trở đầy xúc động.

Thơ Nguyễn Khuyến đa dạng về nội dung, nhiều màu vệ trong cách thể hiện nhưng sẽ còn mãi với thời gian.

Và do đó, Câu cá mùa thu cũng luôn là một trong những “kiệt tác xinh xắn” của thơ ca Việt Nam.

– Bài làm 6

Nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta không thể nào không nhắc đến chùm thơ thu của ông. Trong chùm thơ thu ấy có ba bài thơ thôi nhưng lại mang đến tất cả những cảnh mùa thu trên làng cảnh quê hương Việt Nam. Đặc biệt trong đó có bài thơ thu điếu không những mang đến cho ta cảnh vật mùa thu mà còn mang đến những tâm trạng của nhà thơ và thú câu cá mùa thu.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, bài thơ có tám câu, mỗi câu có bảy tiếng. Theo như đặc điểm của thể thơ này thì mấy câu đầu chuyên về tả cảnh còn những câu thơ về sau thì nghiêng về tả tình. Tóm lại bằng những hiệu quả của thể thơ này thì Nguyễn Khuyến đã mang đến cho chúng ta một bức tranh thu và một bức tranh tâm trạng của người đang câu cá.

Trước hết là hai câu đề, hai câu thơ ấy có thể nói là những tả cảnh đẹp tiêu biểu của mùa thu. Bằng những cảm nhận của cảm giác trực quan Nguyễn Khuyến đã mang đến một bức tranh tuyệt vời của mùa thu:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo 
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Đúng là mùa thu câu cá, ngay mở đầu bài thơ Tam Nguyên Yên Đổ đã dựng lên một cảnh ao thu lạnh lẽo mà trong trẻo đến mức có thể thấy đáy của nó. Chính vì câu cá cho nên tác giả nhắc đến ao cá trước sau đó mới có bầu trời thu. Mùa thu đến không chỉ in dấu mình trên bầu trời cảnh vật mà nó còn in trên dòng nước của ao cá kia. Trên mặt ao người câu cá vẫn đang ngồi đợi cá cắn câu mà ngắm nhìn cái trong veo của nước. Nước ao ấy không có mà trong xanh như mùa hè mà nó mang một màu trong trắng trong trẻo. Có thể là bầu trời thu kia đã làm cho màu của nước trở nên như thế. Và cũng trên mặt ao ấy cái se lạnh của mùa thu làm cho không gian thêm phần lạnh lẽo hơn. Trên cái bao la sâu thẳm của ao nước thì một chiếc thuyền câu bé tẻo teo trên xuất hiện. Nhà thơ thể hiện sự nhỏ bé của chiếc thuyền hay cũng chính là con người trữ tình trong cái rộng lớn của không gian nơi đây. Phải chăng nhà thơ đang thể hiện tâm trạng lạc lõng, lạnh lẽo cô đơn của bản thân mình qua sự nhỏ bé của con thuyền ấy. Hai chữ “tẻo teo” gợi cho ta sự nhỏ bé vô cùng của con thuyền, dường như trong bức tranh thu ấy con thuyền chỉ như một dấu chấm to hay có thể là to hơn dấu chấm một chút mà thôi.

Như vậy nhà thơ không bắt đầu vẽ bức tranh thu bằng một bầu trời trong trẻo, cũng không làm dấu hiệu thu bằng hương ổi như nhà thơ Hữu Thỉnh mà tập trung vào miêu tả những màu sắc không khí lạnh lẽo của ao thu.

Đến hai câu thơ tiếp theo chúng ta lại được đắm chìm trong sự hấp dẫn của cảnh vật nơi đây. Và đặc biệt chúng ta cũng thấy được sự chuyển động của mùa thu trên ao cá ấy:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí 
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo”

Nói là chuyển động nhưng thật sự phải nói là cố gắng nhìn lắm thì mới có thể phát hiện ra được. Mùa thu vốn nhẹ nhàng như thế nên nó luôn hội tụ tất cả những gì gọi là nỗi niềm của con người. trên ao cá ấy những con sóng cũng xuất hiện tuy nhiên nó không phải là cái sóng dữ dội mà nó chỉ “gợn tí”. Một chữ sóng gợn thôi cũng đã đủ làm cho ta thấy được sự im ắng đến chuyển động cũng như không huống chi ở đây nhà thơ lại dùng đến ba từ là “ hơi gợn tí”. Có thể thấy nhà thơ đã quan sát tinh tế lắm mới miêu tả được như thế. Sóng mang màu xanh biếc và sự chuyển động của sóng còn lá thì sao. Trong bức tranh mùa thu ấy Nguyễn Khuyến đã điểm thêm chiếc lá vàng trước gió nhè nhẹ của mùa thu mà khẽ đưa vèo. Ở đây ta thấy lạ vì “vèo” thường dùng để chỉ trạng thái nhanh chứ không phải chậm như thế kia. Có thể nói Nguyễn Khuyến đã sử dụng từ đó để thể hiện ý đồ nghệ thuật của bản thân mình. Chiếc lá vàng kia rơi nhẹ thật nhưng nó chao nghiêng rồi lượn lượn mấy vòng như là lao đầu xuống thì tác giả gọi nó là vèo chứ không phải là nó rơi nhanh.

Như vậy hai câu thơ này đã mang đến cho chúng ta thêm những hình ảnh và sự chuyển động của những hình ảnh ấy. Vậy là bức tranh thiên nhiên không chỉ có màu sắc hình ảnh mà còn có cả những không khí những chuyển động đậm chất mùa thu.

Hai câu thơ trên với những chuyển động nhẹ nhàng khép lại để nhường cho hai câu thơ tiếp bật lên:

“Tầng mây lơ lững, trời xanh ngắt 
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo”

Lại là những màu sắc hình ảnh của mùa thu nhưng trong cái cảnh thu ấy lại thấy được cái tình thu của lòng người. Bây giờ tác giả không quan sát những vật trên mặt ao nữa mà nhìn lên trên phía bầu trời với những đám mây lơ lửng. Nhà thơ như ngắm nhìn màu trời của mùa thu. Những đám mây thì lơ lửng trên cao nhẹ nhàng lắm còn bầu trời khoác lên mình màu xanh ngắt yêu làm sao. Nhìn lên bầu trời rồi nhà thơ lại nhìn xuống dưới những ngõ trúc quanh co của làng quê mà không thấy bất cứ một ai cả. Có thể nói đến hai câu thơ này không gian không chỉ bó hẹp trong cái ao thu kia nữa mà nó mở rộng lên cả không gian của bầu trời và ngõ trúc. Ấy thế mà không có bất cứ một tiếng động của một chú chim nào hay một tiếng đi của bước chân người. Không gian càng rợn ngợp bao la hơn như đang dần nuốt lấy cái cô đơn của nhà thơ.

Tâm trạng của nhà thơ được thể hiện rõ, đó là sự cô đơn lạc lõng buồn khi không có ai bầu bạn, buồn vì tuy về ở ẩn rồi nhưng tâm trạng không thấy khá hơn. Nỗi lo cho nhân dân bấy lâu nay không bao giờ nguôi nhưng lại bất lực không thể giúp gì.

Kết thúc bài thơ và dòng tâm trạng của mình Nguyễn Khuyến lại trở lại với những hình ảnh của một cụ già ngồi câu cá, ngồi đợi cá cắn câu:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được 
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Trạng thái “tựa gối ôm cần” cho thấy sự buồn chán của nhà thơ, có lẽ nhà thơ không phải ngồi ở đó để câu cá mà ngồi ở đó trong tư thế của người trầm tư đang suy nghĩ về một vấn đê gì đó. Không phải không có cá cũng không phải cá không cắn câu mà nhà thơ tay thì ôm cần nhưng đầu lại không nghĩ đến việc câu cá. Còn những con cá kia lại đớp động dưới chân bèo. Những hình ảnh thơ vô cùng gần gũi với làng cảnh Việt nam và cũng rất đặc trưng cho thu bởi hình ảnh nhẹ nhàng. Cuối cùng thì kết lại bài thơ cũng có những âm thanh tuy là rất nhỏ của tiếng cá.

Tóm lại qua bài thơ ta thấy được một bức tranh thu có đầy đủ màu sắc âm thanh, hình ảnh, chuyển động thế nhưng màu sắc ấy chỉ là những màu nhẹ nhàng, âm thanh ấy chỉ là những âm thanh nhỏ nhẹ, hình ảnh chuyển động ấy gần như là không. Và cảnh dường như mang tâm trạng của nhà thơ. Đó chính là tâm trạng lo lắng cho nhân dân, buồn trước cuộc đời không như ý mong muốn của mình. 

– Bài làm 7

Những cái nóng oi bức của mùa hè qua, là mùa thu lại đến, với những cơn gió mát nhẹ. Mùa thu, cái mùa mà có lẽ truyền cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Chúng ta đã được biết, được học rất nhiều các bài thơ của các tác giả khác nhau. Nhưng khi nói về chủ đề này, người ta không thể không nhắc đến chùm thơ thu rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến: Thu Vịnh, Thu Điếu và Thu ẩm. Đặc biệt, bài thơ Thu điếu – Câu cá mùa thu của ông để lại nhiều ấn tượng sâu sắc khi tìm hiểu sâu về nó. Cùng với thơ thu, ta thấy bài thơ được hiện lên một phần con người của chính tác giả với tấm lòng sâu nặng nghĩa tình đối với đất nước.

Khi nhắc đến thơ thu, người ta thường thấy những nỗi buồn mang mác, gợi nhớ một cái gì đó xa xưa, hay sự tiếc nuối đầy bí ẩn. Bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy. Bài thơ được sáng tác khi ông đã quá bất mãn với xã hội phong kiến và lui về ở ẩn tại quê nhà. Cái xã hội đầy áp bức, bóc lột, người dân phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” đó chính là nửa phong kiến, nửa thực dân. Trước thực tại đau thương, ông thể hiện khí tiết của mình bằng việc bất hợp tác với thực dân Pháp và lui về ở ẩn. Bài thơ Câu cá mùa thu thể hiện nỗi lòng của Nguyễn Khuyến như được giãi bày với hồn quê sông nước:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc cần câu bé tẻo teo”

Phải chăng cái se lạnh của những cơn gió mùa thu làm cho nước ao “lạnh lẽo” ngoài cái lạnh ra., sự tĩnh lặng, vắng vẻ. Vần “eo” được dùng hai lần trong câu thơ đầu càng làm hiện lên rõ sự tĩnh lặng đó. Tuy cảnh vật bí giới hạn trong cái ao, nhưng những suy nghĩ lại vượt ra xa, có những suy nghĩ nhiều chiều. Giữa một không gian tĩnh lặng đến rùng mình nhưng vẫn có sự xuất hiện của một chiếc cần câu, khung cảnh thiên nhiên đã có dấu vết của ngon người làm ấm cúng hơn, mặc dù chỉ rất nhỏ bé, vắng vẻ thôi “tẻo teo”.

Những hình ảnh lại tiếp tục được gợi mở:

“Sóng biếc theo làn hơi gợi tý

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Ở đây, tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng nghệ thuật lấy động để nói tĩnh. Dùng những hình ảnh động nhỏ bé để miêu tả, gợi lên yên tĩnh của mùa thu ở làng quê Việt Nam. Ta đã từng bắt gặp hình ảnh lá vàng rơi ở trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, dù rất nhỏ bé trong không trung nhưng ông vẫn biết tiếng rơi của nó như là “rơi nghiêng”. Còn trong thơ của Nguyễn Khuyến lá vàng trước gió được “khẽ đưa”, chiếc lá rất nhẹ và nhỏ thoi hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Phải là một người có tâm hồn yêu quê hương, thiên nhiên, yêu cuộc sống thì Nguyễn Khuyến mới cảm nhận được như vậy.

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”

Không gian không bị eo hẹp trong cái ao nhỏ bé nữa, mà không gian được mở rộng lên cao hơn, bề rộng hơn. Trời cao xanh, nhưng tâm trạng của con người lại man mác buồn. Với khung cảnh làng quê Việt Nam được tái hiện trong thơ của Nguyễn Khuyến nghe thật giản gị, mà gần gũi. Thiên nhiên đẹp, nhưng lòng sầu vì thế bức tranh bị nhuốm màu tâm trạng của tác giả. Đúng như Nguyễn Du đã từng viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Vì thế ngõ trúc quanh co nhưng lại “vắng teo”.

Dùng cảnh để nói lên tâm trạng, nỗi lòng của mình, nhưng có lẽ chưa lột tả hết những tâm tư của tác giả, vì thế, chủ thể dần hiện lên trong hai câu thơ cuối:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Cái dáng ngồi đã thể hiện lên một phần tâm trạng của tác giả “tựa gối”. Mặc dù đi câu cá, nhưng mục đích có phải như vậy không, thì câu cuối đã giả thích’cá đâu đớp động” một sự mơ hồ chưa xác định rõ. Như vậy, có thể thấy được, đi câu cá chỉ là cái “cớ” để ông ở ẩn với đời. Nhưng cuộc đời ở ẩn của ông không nguôi nhớ về đất nước với những nỗi niềm suy tư, lo âu. Nguyễn Khuyến đúng là con người có tấm lòng yêu nước sâu đậm.

Như vậy, bài thơ hay chính là nỗi niềm của tác giả được hiện lên, bức cảnh làng quê Việt được tái hiện ẩn sau đó là sự lo âu, trăn trở về nước nhà. Thể hiện tinh thần yêu nước của ông.

– Bài làm 8

Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu”, nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.

“Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ  tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên “lạnh lẽo”. Trện mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ – “bé tẻo teo". Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo”:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.

Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.

Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài ba làm rõ thêm cái hồn của cảnh thú:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Màu “biếc” của sóng hoà hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng" với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với mức độ của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu": "Vèo trông lá rụng đầy sân”.

Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời "xanh ngắt" với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt":

–   “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao".

(Thu vịnh)

–   “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ”

(Thu ẩm)

–   Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.

(Thu điếu)

“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (mây xám), mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lão đong đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:

“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong một giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” đến “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”, từ “sóng biếc" đến "lá vàng", từ “tầng mây lơ lửng” đến “ngõ trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh  có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mọi con người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!

Cái ý vị của bài thơ “Thu điếu” là hai câu kết:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

“Tựa gối ôm cần ” là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của một nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh “cá đâu đớp động” nhất là từ “đâu” gợi liên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh sạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ như đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khim “Cá đâu đớp động dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy – buồn cô đơn và trống vắng.

Âm thanh tiếng cá “đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỉ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc vàng của lá thu, ở màu “xanh ngắt” của bầu trời thu, ở làn “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”…

Thật vậy, bài thơ "Câu cá mùa thu’’ là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa "vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo – đó là nét dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao koài niệm đẹp về quê hương đất nước.

Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo vần "eo” đi vào bài thơ rất tự nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo – bé tẻo teo – đưa vèo – vắng-chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài “Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một vùng đậm nhạt của chiếc lá thu rơi…

Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc "Thu điếu”, "Thu vịnh”, “Thu ẩm”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyên, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

– Bài làm 9

Mùa thu, mùa của hoa sữa thoảng thoảng , mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được các nhà thơ yêu và đưa vào trong những trang thơ nhiều nhất.Với Nguyễn Thỉnh nhẹ nhàng mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận ra hương ổi – phả vào trong gió se- sương chùng trình qua ngõ -hình như thu đã về”.Nhưng mùa thu trong mắt Nguyễn Khuyến thì lại khác.Qua  bài thu điếu ta thấy đằng sau cảnh thu tĩnh lặng thì lại là nỗi niềm tâm sự sâu kín của người thi sĩ

Thu điếu viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú ,hầu hết tám câu thơ đều tả cảnh , hình ảnh con người chỉ xuất hiện ở hai câu cuối.Cảnh của bài thơ vẫn là trời , nước gió, trúc .. những hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Hình ảnh “ao thu” miêu tả với tính từ “lạnh lẽo”.Có lẽ cái lạnh của mùa thu cũng ngấm dần vào làn nước và ngấm dần vào tâm hồn nhà thơ.Tính từ “trong veo” miêu tả làn nước, không gian tĩnh lặng.Nước trong veo chứ không phải là lăn tăn gợn sóng, hai âm “eo” được lặp liên tiếp ở câu trên và câu dưới khiến cho cảm giác về sự tĩnh lặng càng trở nên thật hơn

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Không gian lạnh lẽo của mùa thu ấy xuất hiện chiếc thuyền cô đơn lẻ loi.Tác giả dùng từ “bé tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng trở nên nhỏ bé hơn,đơn độc hơn.Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.Thật đúng cảnh dưới con mắt nhà thơ sao mà buồn tẻ, sao mà cô đơn đến lạ.Cuộc sống bây giờ tĩnh lặng đến nghẹt thở chẳng có âm thanh để chứng tỏ cuộc sống ồn ã vẫn đang tiếp diễn

Sóng biêc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Bức tranh thu tiếp tục hiện lên hình ảnh “Sóng và lá vàng”.Mọi vận động  đều khẽ khàng và nhẹ nhàng như thế “sóng lăn tăn gợn tí”, “lá vàng đưa vèo”.Tác giả thật tinh tế về việc sử dụng từ tượng hình và từ tượng thanh.Cảnh vật miêu tả theo chiều hướng lấy động tả tĩnh, dù bức tranh ấy có âm thanh nhưng âm thanh khẽ khàng quá lại càng toát lên vẻ tĩnh lặng của mùa thu

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Không gian được mở rộng ra cả tầm cao và tầm rộng. “Tầng mây lơ lửng” mây cứ chùng chình lơ lửng , mây cũng chẳng muốn bay.Cuộc sống chẳng hối hả hay tâm hồn nhà thơ đang sâu đầy tâm tư.Bầu trời thu “xanh ngắt”, màu sắc đậm nét của bức tranh thu,mỗi nét vẽ của Nguyễn Khuyến đếu rất dứt khoát để tả cảnh vật “ đưa vèo”, “hơi gợn tí”, “xanh ngắt”.Mây trời đơn điệu và tẻ nhạt.Còn ngõ trúc “quanh co”,“vắng teo”.Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng tác giả lại còn sử dụng “ vắng teo” thì có nghĩa không gian thu ấy không âm thanh ,không chút cử động,không bóng người chỉ có màu sắc ơ thờ không hòa quyện

Bởi thế hai câu thơ cuối bài là một sự trống vắng, là nỗi cô đơn đến thắt lòng

Tựa Gốm ôm cần lâu chẳn được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Đến đây hình ảnh con người đã xuất hiện nhưng lại với tư thế “ ngồi tựa gối”, “ôm cần”. Trong trạng thái trầm tư và sâu cảm, cảnh vật đã cô đơn con người lại càng cô đơn hơn.Nhà thơ ngồi câu lâu chẳng được.Từ “cá đâu” là cách hỏi mơ hồ  không định hướng ,nhưng cũng có thể là sự ngỡ ngàng trong lòng người.Nhà thơ chìm sâu trong suy nghĩ miên man,mất cảm giác ở thực tại nên mới “cá đâu đớp động dưới chân bèo”.Nhà thơ muốn tìm sự thư thái trong tâm hồn nên mới đi câu.Nhưng cảnh vật tĩnh lặng đến ngẹt thở lại càng làm nhà thơ chìm sâu trong nỗi cô đơn.

Cảnh thu đẹp và buồn trong bài thu điếu đã được Nguyên Khuyến miêu tả thật khéo léo và tinh tế .Cảm xúc , tâm tư của nhà thơ được dồn nén qua từng câu thơ, trong cảnh vật thu ấy.Thu điếu đi vào lòng người nhẹ nhàng và buồn man mác, khiến người đọc biết thêm về làng quê Việt Nam với những nét đẹp khác.

Từ khóa từ Google

0