Nguyễn Ái Quốc và tư tưởng tổ chức chính trị cho việc thành lập đảng

1. Quá trình tìm đường Cuối năm 1911, lấy tên là Ba, Nguyễn ái Quốc làm phụ bếp dưới tàu buôn Đôđốc La-tút-sơ Tơ-rê-vi-lơ thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp. Từđó Người đi, đi rất nhiều, trước hết là sang Pháp. Với lòng yêu nước nồng nàn và căm thù bọn thực dân sâu sắc. Người kiên ...

1. Quá trình tìm đường

Cuối năm 1911, lấy tên là Ba, Nguyễn ái Quốc  làm phụ bếp dưới tàu buôn Đôđốc La-tút-sơ Tơ-rê-vi-lơ thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp. Từđó Người đi, đi rất nhiều, trước hết là sang Pháp. Với lòng yêu nước nồng nàn và căm thù bọn thực dân sâu sắc.

Người kiên trì chịu đựng mọi thử thách hòa mình với giai cấp công nhân và nhân dân lao động đủ các màu da, để tìm lấy con đường cách mạng đúng đắn.

Người tìm hiểu cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, cuộc cách mạng Pháp năm 1789, phong trào giải phóng của các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Người thấy rằng cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp nêu cao khẩu hiệu tự do, bình đẳng nhưng không đemlại tự do, bình đẳng cho quần chúng lao động, “tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngòai thì nóáp bức thuộc địa”. “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính đến cách mạng lần thứ hai”. Còn Pháp “cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẳn còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.

Những kết luận trên đây được chính thức rút ra sau khi Nguyễn Tất Thành trở thành người cộng sản. Nhưng trong quá trình tìm tòi con đường cứu nước, Người đã sớm nhận thức được tính chất phản động của giai cấp tư sản và thấy rõ các cuộc cách mạng trên là các cuộc cách mạng không triệt để vì nó không đem lại tự do, bình đẳng thực sự cho nhân dân lao động.

2. Sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị tổ chức

Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã phơi trần tận gốc tính dã man, tàn bạo, thối nát, giẫy chết của chủ nghĩa tư bản. Bước đầu Người rút ra được một kết luận quan trọng làởđâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ởđâu giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bịáp bức, bóc lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù không đội trời chung là bọn đế quốc, thực dân. Do đó, Người nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn và chủ nghĩa đế quốc ởđâu cũng là thù. Đây là một bước chuyển biến lớn trong nhận thức của Nguyễn ái Quốc . Người đã giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ ta, bạn, địch, đó là giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp là bạn, còn bọn thực dân đế quốc Pháp mới là kẻ thù của nhân dân Việt Nam.

Năm 1917, từ Anh trở về Pháp, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp và lập ra ra Hội những người Việt Nam yêu nước để tuyên truyền giác ngộ Việt kiều ở Pháp, đồng thời người tập viết báo, phân phát truyền đơn và tham gia các cuộc họp, cuộc mít tinh đến các buổi thảo luận để tố cáo thực dân Pháp và hướng sự chúý của mọi người vào vấn đềĐông Dương.

Giữa những ngày hoạt động sôi nổi đó thì Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ làm chấn động toàn cầu. Cách mạng tháng Mười nga đã thức tỉnh giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bịáp bức trên toàn thế giới vùng dậy đấu tranh cách mạng. Nóđã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người, kỷ nguyên tan rã của chủ nghĩa tư bản, kỷ nguyên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga đã có một ảnh hưởng quyết định vào đời hoạt động của Nguyễn ái Quốc . Phấn khởi và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng nước ta và cách mạng toàn thế giới, Người quyết tâm đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước đế quốc thắng trận họp ở Vecxai (gần thủđô Pari) ngày18-6-1919 để chia lại thị trường thế giới. Lúc này, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp đãđưa tới hộ nghị bản yêu sách đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Những yêu sách nói trên không được chấp nhận nhưng đòn tấn công trực diện đầu tiên đó của nhà cách mạng trẻ tuổi vào bọn trùm đế quốc đã có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa Pháp. Một bài học lớn đãđược rút ra: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.

Kết luận ấy cóý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng, vì nó soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của nhân dân ta và cuộc đấu tranh của các thuộc địa khác. Bản yêu sách đã gây tiếng vang rất lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Người Pháp coi đó như một “quả bom” làm chấn động dư luận Pháp. Còn đối với nhân dân Việt Nam thìđó như một “phát pháo hiệu” thức tỉnh nhân dân ta đứng dậy đấu tranh.

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, khẳng định lập trường kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Từđó, Nguyễn Ái Quốchoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba.

Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (12-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba và lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Cộng sản Pháp – và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin vàđi theo con đường cách mạng vô sản. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước mởđường giải quyết cuộc khủng hoảng vềđường lối giải phóng Việt Nam.

Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội Liên hiệp thuốc địa ở Pari đểđoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức đóđem chủ nghĩa Mác – Lênin đến các dân tộc thuộc địa. Tờ báo Người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bịáp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. Nguyễn Ái Quốc còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân (của Tổng Liên đoàn lao động Pháp) v.v.. và cuốn sách nổi tiếng Bản án chếđộ Thực dân Pháp. Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam.

Nhân dân ta, trước hết là những người tiểu tư sản tri thức yêu nước, tiến bộ, nhờđọc các sách báo tiến bộđó mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng, hiểu được Cách mạng tháng Mười Nga vàđã hướng về chủ nghĩa Mác- Lênin.

Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân vàđược bầu vào Ban chấp hành. Sau đó Nguyễn Ái Quốc ở lại Liên Xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập, làm việc ở Quốc tế Cộng sản, viết bài cho báo Sự thật, tạp chí Thư tín quốc tế. Tại Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường, quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.

Những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng giải phóng thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc đã tiếp nhận được dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin vàđã có công truyền bá vào nước ta từ sau chiến tranh là một bước chuẩn bị quan trọng về chính trị và tư tưởng cho sự thành lập chính đảng ở nước ta trong giai đoạn tiếp sau.

Sau một thời gian ở lại Liên Xôđể học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đảng kiểu mới, Nguyễn Ái Quốc lên đường về tới Quảng Châu (Trung Quốc) vào ngày 1-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam có mặt tại đây, cùng một số thanh niên hăng hái mới từtrong nước sang theo tiếng gọi của tiêng bom Sa Diện (6-1924), để thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, trong đó có tổ chức Cộng sản đoàn làm nòng cốt, rồi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, chuẩn bịđiều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam (6-1925).

Nguyễn Ái Quốc trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trịđểđào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng, từ năm 1924 đến năm 1927 đãđào tạo được 75 hội viên. Một sốđược chọn đi học trường Đại học Phương Đông Liên Xô, một sốđược cửđi học quân sựở Liên Xô hay Trung quốc, còn phần lớn lên đường về nước hoạt động. Ngay sau khi Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra đời, tuần báo Thanh niên được xuất bản làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Các bài giảng trong các lớp đào tạo cán bộở Quảng Châu cũng được tập hợp lại in thành sách Đường cách mệnh (đầu năm 1927).

Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Từ tác phẩm toát ra một yêu cầu cấp thiết hành động. Ba tư tưởng cơ bản được nêu lên: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng đông đảo nên phải được động viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng vùng dạy đánh đổ các giai cấp áp bức, bóc lột; cách mạng phải cóđảng của chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo; cách mạng trong nước cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới và là một bộ phận của cách mạng thế giới. Mục đích của cuốn sách làđể nói cho đồng bào ta biết rõ: “Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh – Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người – Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi – Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ – Ai là bạn ta? Ai là thù ta? – Cách mệnh thì phải làm thế nào?

Đường cách mệnh được viết ra chính làđể trang bị cho cán bộ và nhân dân ta hồi đó những hiểu biết “rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 với 2 là 4, không tô vẽ trang điểm gì cả” nhưng rõ ràng là rất cần thiết cho thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

Suốt trong hai năm 1926-1927, tác phẩm Đường cách mệnh, tuần báo Thanh niên đãđược bí mật chuyển từ Trung Quốc về trong nước, vào đúng lúc phong trào yêu nước và dân chủđang sôi nổi từ Nam ra Bắc trên cơ sở giai cấp công nhân đang lớn mạnh nhanh chóng nên càng cóđiều kiện đi sâu vào quần chúng, mởđường cho sự du nhập chủ nghĩa Mác – Lênin và sự thành lập Đảng.

Năm 1926, các tổ chức cơ sở trong nước của Hội Việt Nam cách mạng thanh nhiên được xây dựng ở nhiều trung tâm kinh tế chính trị quan trọng. Số hội viên tăng nhanh, năm 1928 mới có 300 thì năm sau đã lên tới 1700 hội viên. Cho đến trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất (5-1929), Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã có tổ chức cơ sởở hầu khắp cả nước. Ngoài ra, còn tổ chức một sốđoàn thể quần chúng như công hội, nông hội, hội học sinh, hội phụ nữ…

Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có chủ trương “vô sản hóa” đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân để tự rèn luyện, đồng thời để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin. Phong trào “vô sản hóa” đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh sự hình thành Đảng cộng sản Việt Nam.

Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủở nước ta, đặc biệt là phong trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên không còn đủ sức để lãnh đạo nữa. Cần phải thành lập một Đảng Cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cùng các lực lượng yêu nước và cách mạng khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành lấy độc lập và tự do.

Cuối tháng 3-1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc Kì, trong đó có Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh đã họp ở số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) để lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ởvn gồm có 7 người, tích cực chuẩn bị tiến tới thành lập một Đảng Cộng sản thay thế cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) khi kiến nghị của mình đưa ra về việc thành lập Đảng Cộng sản không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc Kì bèn rút khỏi hội nghị về nước, rồi ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng lớp nhân dân cách mạng nước ta ủng hộ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản.

Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội quyết định thành lập Đông Dương cộng sản đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ của đảng, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.

Đông dương cộng sản Đảng ra đời đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của quần chúng nên được nhiệt liệt hưởng ứng, uy tín và tổ chức của đảng phát triển rất nhanh, nhất là Bắc kì và Bắc Trung kì.

Tiếp đó, các hội viên tiên tiến trong bộ phận Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc vàở Nam kì cũng quyết định lập An Nam cộng sản Đảng (7-1929).

Sự ra đời của Đông Dương cộng sản đảng (6-1929) và An Nam cộng sản đảng (8-1929) đã tác động mạnh mẽđến sự phân hóa của Tân Việt cách mạng đảng. Các đảng viên tiên tiến của đảng Tân Việt từ lâu đã chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cũng tách ra đề thàh lập Đông Dương cộng sản liên đoàn (9-1929).

Thế là chỉ trong vòng không đầy 4 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9-1929) đã có 3 tổ chức Đảng Cộng sản ở Việt Nam lần lượt tuyên bố thành lập.

Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sởđảng trong nhiều địa phương, và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống cướp ruộng đất, phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương, tạo thành một làn sóng đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ khắp cả nước.

Nhưng trong một nước có ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, gây nên một trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Tình hình đó nếu để kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước.

Trước tình hình đó, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc cóđủ quyền quyết định mọi vấn đề của phong trào cách mạng ởĐông Dương đã thống nhất các lực lượng cộng sản ở Việt Nam để thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất.

Từ ngày 3 đến 7-2-1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở Cửu Long (Hương Cảng). Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản chủ trì hội nghị. Tham gia hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản đảng, 2 đại biểu An Nam cộng sản đảng.

Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, hội nghịđã hoàn toàn nhất trí tán thành thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Nhân dịp thành lập Đảng, Người cũng đã ra Lời kêu gọi Hội nghị tháng 2-1930 của đại biểu các tổ chức cộng sản ởĐông Dương để hợp nhất Đảng cóý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng. Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được hội nghị thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.

Những văn kiện của Cương lĩnh đầu tiên đó của Đảng đã vạch rõ cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng đó kế tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh viết: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổđịa cách mạng đểđi tới xã hội cộng sản”.

0