16/01/2018, 13:00

Kể lại nội dung bài thơ Lượm của Tố Hữu – Văn mẫu lớp 7

Kể lại nội dung bài thơ Lượm của Tố Hữu – Văn mẫu lớp 7 Kể lại nội dung bài thơ Lượm của Tố Hữu – Bài số 1 Việt Nam là một đất nước anh hùng, chiến tranh nổ ra thì mọi người dân Việt Nam đều đồng khởi đứng lên đấu tranh, chống lại quân cướp nước. Điều đáng nói là trong dân tộc anh ...

Kể lại nội dung bài thơ Lượm của Tố Hữu – Văn mẫu lớp 7

Kể lại nội dung bài thơ Lượm của Tố Hữu – Bài số 1

Việt Nam là một đất nước anh hùng, chiến tranh nổ ra thì mọi người dân Việt Nam đều đồng khởi đứng lên đấu tranh, chống lại quân cướp nước. Điều đáng nói là trong dân tộc anh hùng đó, không chỉ có những bậc nam nhi đầu đội trời chân đạp đất làm nên những chiến công vang lừng, mà ngay cả những người phụ nữ, người già, trẻ em cũng đều trở thành những người chiến sĩ quả cảm khi đất nước đứng trước màn đêm nô lệ. Ta có thể nghe nói đến sự anh dũng của của những bậc nữ trung hào kiệt như: Hai Bà Trưng, bà Triệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân, Võ Thị Sáu…nhưng những tấm gương về những đứa bé anh hùng khiến chúng ta bất ngờ, khâm phục. Một trong những cậu bé anh hùng đó chính là chú bé Lượm.

Đó là những ngày chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà cụ thể là vào năm 1949, khi thực dân Pháp dáo diết đàn áp cách mạng Việt Nam, mở những cuộc tấn quy mô lớn lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt Đảng, tiêu diệt chính phủ, kết thúc chiến tranh. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn nhưng những người dân Việt Nam không hề lùi bước mà kiên cường đấu tranh chống Pháp. Một trong những việc quan trọng nhất của cách mạng ngày ấy chính là công tác liên lạc giữa chiến khu với các địa phương trong cả nước. Và người thực hiện những công tác liên lạc đó không chỉ thành thạo đường mà còn phải vô cùng dũng cảm, bởi trên đường đưa tin bất cứ lúc nào cũng có thể bị giặc bắt hay bị đạn lạc của chiến tranh làm cho hi sinh.

Và điều bất ngờ hơn cả là trên mảnh đất của những anh hùng ấy, không chỉ có những người trưởng thành có ý thức chiến đấu chống giặc, mà ngay cả những cậu bé mười hai mười ba tuổi cũng tràn lòng căm thù và tinh thần chống giặc sâu sắc. Cậu bé Lượm là một cậu bé như vậy, dù còn nhỏ tuổi nhưng Lượm đã tình nguyện xung phong làm công tác đưa tin cho cán bộ. Ở độ tuổi của Lượm thì quân giặc cũng mất cảnh giác hơn, nhưng không phải vì vậy mà tránh được những hiểm nguy cận kề của chiến tranh. Hành trình đưa tin của Lượm không phải chỉ trải qua một hai khó khăn, mà đôi khi chỉ một hành động bất cẩn cũng có thể khiến em hi sinh, nhưng ở cậu bé Lượm luôn có tinh thần lạc quan yêu đời, nụ cười lúc nào cũng nở trên môi, kể cả khi em đã hi sinh cho đất nước thì nụ cười ấy cũng chưa bao giờ tắt.

Lượm là một chú bé tầm mười hai, mười ba tuổi, dáng vẻ hồn nhiên đáng yêu thể hiện ra ngay ở hình dáng bên ngoài của em, đó là một chú bé có vóc dáng nhỏ bé, loắt choắt, đầu đội chiếc mũ ca nô, nhưng sự đáng yêu thể hiện ngay trong cách đội mũ ấy. Bởi Lượm không đội ngay ngắn bao giờ, lúc nào cũng đội lệch, cái đầu thì nghênh nghênh, miệng lúc nào cũng huýt sáo, hát lên những bài hát đầy vui vẻ. Dáng vẻ tươi vui, bước chân nhanh nhẹn khiến cho người nhìn liên tưởng em như những chú chim chích với đôi chân nhảy nhanh thoăn thoắt trên đường.

Trên đường làm công tác liên lạc, Lượm gặp nhiều những người lính, những người bộ đội đang làm nhiệm vụ. Cậu bé rất lễ phép, hễ gặp ai thì cũng chào hỏi nhiệt tình, khi được các chú hỏi han thì cậu bé rất tự hào nói với các chú rằng: Cháu đang làm công tác liên lạc, khi những người lính hỏi cậu bé không sợ à? Thì cậu bé rất khảng khái thể hiện được niềm yêu thích với công việc liên lạc của mình: Thích lắm chú ạ. Và điều khiến cho những người lính khâm phục hơn nữa ở cậu bé này, chính là tinh thần kiên cường, dũng cảm của cậu bé, chú nói ở đồn Mang Cá thích hơn ở nhà. Có lẽ cái “thích” mà cậu bé Lượm nói đến đó chính là cái ý nghĩa cao đẹp của công việc liên lạc mang lại.

Lượm là cậu bé vô cùng vui vẻ, hài hước, trước khi chia tay những người lính, cậu bé đã để tay lên đầu, đứng nghiêm trang và nói “Thôi, chào đồng chí” với khuôn miệng chúm chím nụ cười dễ thương. Có thể thấy dù hồn nhiên, yêu đời nhưng Lượm lúc nào cũng ý thức được nhiệm vụ của mình, bởi công tác liên lạc đòi hỏi sự bí mật, nhanh chóng nên dù vui khi được gặp những người lính thì chú bé cũng đều chủ động nói lời chia tay và tiếp tục lên đường. Nhưng, không khí chiến tranh quá khốc liệt, vì một bức thư “Thượng Khẩn” không thể chậm chễ nên Lượm đã vượt qua mưa bom bão đạn, không để ý đến sự an nguy của bản thân mà muốn nhanh chóng đưa thông tin cho cán bộ, bởi sự tình đang vô cùng cấp thiết.

Nhưng, thật đau lòng thay, viên đạn vô tình, khốc liệt đã gim vào người em, Lượm ngã xuống, miệng vẫn lấp lánh tia cười đầy hồn nhiên. Lượm đã hi sinh dũng cảm cho đất nước nhưng trong tâm thức của người Việt Nam, em luôn bất tử, lúc nào cũng là một cậu bé hồn nhiên, đội chiếc mũ ca nô lệch, miệng huýt sáo vang….

Kể lại nội dung bài thơ Lượm của Tố Hữu – Bài số 2

Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân quyết hi sinh để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do chúng ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc gặp giặc Pháp tấn công vào Huế. Không khí những ngày đó thật sôi sục. Người dân xứ Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đồng lòng đánh giặc, bảo vệ quê hương.

   Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc: "Ôi chú Lành! Chú về hồi nào vậy?". Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca nô đội lệch, trông mới tinh nghịch làm sao. Cháu cười, phô hàm răng trắng đều, sải bước thật nhanh về phía tôi, hai tay dang rộng, chiếc xắc cốt nhún nhảy trên lưng theo nhịp bước.

   Ồ! Lượm! Đứa cháu bé bỏng của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như một anh bộ đội thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe:

   – Cháu làm liên lạc. Ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm việc… Vui lắm chú à!

   Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ứng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm. Cháu giơ tay lên mũ, đứng nghiêm chào tôi: "Thôi, chào đồng chí!" kèm theo nụ cười tinh nghịch. Tôi đứng lặng nhìn theo bóng cháu đang thoăn thoắt nhảy chân sáo trên đường. Tiếng huýt sáo vui vẻ của Lượm vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi rất vui vì Lượm đã trở thành đồng đội của tôi, một đồng đội tí hon.

   Ngày tháng trôi qua, hai chú cháu tôi chiến đấu trên hai mặt trận khác nhau. Vào một ngày hè tháng sáu, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận. Trong lửa đạn mịt mù, cháu lao lên như một mũi tên, không sợ hiểm nguy, quyết trao tận tay người chỉ huy trận đánh lệnh của cấp trên. Một viên đạn thù đã bắn vào cháu. Lượm ngã xuống trên quê hương, giữa đồng lúa thơm mùi sữa lên đòng. Lượm đã hi sinh ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Cháu ra đi mãi mãi, để lại niềm thương cảm khôn nguôi trong lòng tôi…

   Mỗi khi nghĩ đến Lượm, trong tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh một chú bé loắt choắt, vai đeo chiếc xắc cốt đựng tài liệu, đầu đội lệch chiếc mũ ca lô, miệng huýt sáo vang, vừa đi vừa nhảy chân sáo trên con đường chan hòa ánh nắng.

Kể lại nội dung bài thơ Lượm của Tố Hữu – Bài số 3

Một ngày cuối năm 1947, nhà thơ Tố Hữu có chuyến công tác đến tình Thừa Thiên Huế. Hôm ấy đến đồn Mang Cá, ông thấy không khí chiến đấu của anh em rất sôi nổi nên rất vui mừng.

Sau khi báo cáo tình hình của đồn, các đồng chí chỉ huy đồn mời nhà thơ đi tham quan tình hình xung quanh. Bất chợt, ông nhìn thấy một chú bé chừng hơn 10 tuổi trông rất lanh lẹ và hoạt bát đang lúi húi xem xét những bao thư trong túi xắc. Tố Hữu nhìn chú bé rất chăm chú. Dẫu vậy, ông cũng không biết ràng chú bé này rồi sẽ bất tử trong những vần thơ của mình.

Cậu bé ấy có dáng người loắt choắt nhưng đôi chân cứ thoăn thoắt chạy đi chạy lại hỏi han những người xung quanh điều gì đó. Bên hông chú, chiếc xắc nhỏ xinh cứ lắc lắc đập dập tung tẩy. Đôi mắt cậu mở to, trong sáng, hồn nhiên rất hợp với chiếc ca lô xinh xắn đội lệch trên đầu. Nhà thơ Tố Hữu hỏi một đồng chí cùng đi về chú bé ấy thì được trả lời:

– Báo cáo hai đồng chí, đó là em Lượm, liên lạc viên xuất sắc nhất của đồn hiện nay. Có lẽ em đang hỏi để đưa thư cho mọi người.

Nhà thơ Tố Hữu vui vẻ lại gần chú bé Lượm hỏi chuyện:

– Thế cháu mấy tuổi rồi?
– Dạ cháu 12 tuổi ạ!
– Đi liên lạc cháu thấy thế nào?
– Dạ vui lắm chú ạ! Mọi người ai ai cùng vui vẻ, hăng hái. Ở đồn Mang Cá, cháu còn thích hơn ở nhà nữa cơ!
– Nếu thành Huế ai ai cũng như cháu thì thằng Pháp sẽ nhanh chóng bại trận trong một ngày không xa.

Nhà thơ chưa kịp hỏi chuyện thêm thì Lượm đã cất tiếng chào để tiếp tục đi làm nhiệm vụ. 

Bẵng đi một vài tháng, một hôm nhà thơ Tố Hữu đang làm việc ở cơ quan thì có một đồng chí trong ban chỉ huy ở đồn Mang Cá xin được vào báo cáo. Sau khi làm việc xong, nhân được gặp người quen, Tố Hữu và đồng chí ở đồn Mang Cá ngồi hàn huyên nói chuyện. Nghe hỏi đến tình hình anh em trong đồn, đồng chí ở đồn Mang Cá chợt trầm xuống, ngậm ngùi:

– Anh có nhớ chủ bé Lượm liên lạc không? Cháu bé mà anh rất thích ấy… Cháu đã hi sinh rồi!

Tố Hữu sững người.

– Hôm ấy, như mọi ngày Lượm nhận công văn của đồn triển khai công tác bố phòng đến những vùng ngoại ô. Em tức tốc đi ngay. Không ngờ trên đường đi, em gặp ngay một ổ phục kích của quân thù. Em vội lánh chạy nhưng không kịp, giặc đà bắn theo tới tấp. Lượm hy sinh. Khi chúng tôi nhận được tin rồi cùng dân làng chạy tới thi thấy người em đã lạnh, riêng làn môi vẫn còn mỉm một nụ cười. Một tay chú giữ chiếc ca lô, tay kia bám chặt một bông lứa sữa. Cách đó không xa, dưới lòng mương, những mảnh vụn của tờ điện khẩn ướt sũng…

Đồng chí ấy vừa kể xong thì oà khóc. Nhà thơ Tố Hữu nghẹn lời.

Sau ngày hôm ấy, bài thơ “Lượm” được ra đời và nhanh chóng lan truyền rộng rãi trong các đội thiêu niên nhi đồng. Bài thơ cất lên nhắc nhỡ chung ta phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cha anh đi trước. Nhất là phải sống sao cho xứng đáng với những anh hùng thiếu niên, các anh ấy tuy nhỏ tuổi nhưng dũng cảm vô cùng. Và nếu không có chiến tranh thì các anh các chị cũng hạnh phúc như chúng ta bây giờ.

Kể lại nội dung bài thơ Lượm của Tố Hữu – Bài số 4

Trong cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc ta chống quân xâm lược, tôi đã biết nhiều trường hợp hi sinh. Trong số đó, sự hi sinh của các em thiếu nhi làm tôi rất xúc động.

Ngày ấy, khi giặc Pháp đánh đến Huế, thì tôi vừa ở Hà Nội về, tình cờ gặp cháu Lượm. Đó là chú bé nhỏ loắt choắt, đeo cái xắc bé xíu. Đặc biệt chú thích đội nghiêng chiếc mũ calô trên đầu, vừa huýt sáo, vừa nhảy chân sáo, nom hệt như một chú chim chích trên đường những buổi sớm mai.

Tôi hỏi:

– Cháu đi làm liên lạc cho cơ quan kháng chiến, có nhớ nhà không?

Cháu cười rạng rỡ, hai mắt híp lại, hai má đỏ hồng như trái bồ quân, nói:

– Ở đồn Mang Cá vui lắm chú ạ, còn vui hơn ở nhà nhiều!

Tôi từ biệt cháu, lại lên đường ra Bắc, còn cháu lại trở về Mang Cá. Từ đó công việc liên miên tôi không còn dịp nào trở về Huế nữa.

Một hôm, tôi gặp một người quen từ Huế ra công tác. Trong giờ nghỉ, người ấy nói:

– Cháu Lượm hi sinh rồi, anh biết không?

– Sao? Lượm hi sinh rồi sao, trong trường hợp nào? Tôi hấp tấp hỏi đôi mắt như nhòa đi.

Người quen ấy kể:

– Cháu Lượm vẫn làm liên lạc cho cơ quan chúng tôi. Một hôm có công văn khẩn phải đưa đi gấp. Đường đi băng qua đồn địch, rất nguy hiểm. Chúng tôi căn dặn:

– Phải cẩn thận, đường nguy hiểm lắm đấy, qua đồn cháu phải coi chừng mới được.

Cháu mỉm cười, bừng đỏ đôi má bồ quân.

– Nguy hiểm cháu cũng không sợ, việc cần thì phải đi.

Nói rồi cháu bỏ thư vào bao, đội mũ ca lô ra đi. Từ xa tôi trông theo vẫn thấy cái mũ ca lô nhấp nhô trên đồng lúa như thể cháu vừa đi vừa nhảy, vừa huýt sáo vậy. Bỗng từ phía đồn địch một chớp đỏ lóe lên rồi một tiếng nổ vọng lại. Cái mũ ca lô biến mất. Khi chúng tôi tìm đến thì cháu đã hi sinh. Máu đỏ thấm ướt ngực cháu, nhưng nét mặt thanh thản như là đang ngủ, một tay nắm chặt bụi lúa bên đường. Đồng lúa đang trổ đòng đòng, hương thơm ngào ngạt như đang ấp cho cháu ngủ.

Tin cháu Lượm hi sinh làm tôi xót xa bàng hoàng. Từ độ kháng chiến đến nay, tôi đã nghe nhiều tin tức hi sinh của đồng bào đồng chí, nhưng tin cháu Lượm bỏ mình làm tim tôi xao xuyến mãi. Cháu còn bé bỏng quá, vô tư quá, đã hiểu thế nào là sống chết đâu. Trước mắt tôi bỗng xuất hiện lên hình ảnh một chú Lượm nhỏ bé, đeo cái xắc xinh xinh, đội cái mũ ca lô lệch, vừa huýt sáo vừa nhảy tâng tâng như con chim chích của vườn ruộng Việt Nam.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • ngư văn 7 Thơ Lươm
0