05/02/2018, 12:19

Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài tập làm văn số 6 lớp 10

Đánh giá bài viết Xem nhanh nội dung1 Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài làm 1 2 Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài làm 2 Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại ...

Đánh giá bài viết Xem nhanh nội dung1 Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài làm 1 2 Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài làm 2 Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài làm 1 Để lại cho đời một kho tàng văn học Việt Nam, những tác phẩm quý giá, đặc sắc cho nghệ thuật văn chương, khi nhắc đến ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ, người đời lại nhớ đến văn hào–bậc đại anh hùng dân tộc đó là nhà thơ lớn Nguyễn Trãi Ông sinh năm 1380 mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại sau dời về Nhị Khê. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long- một nho sinh nghèo, học giỏi, đổ Tiến sĩ. Mẹ là Trần Thị Thái – Con quan tư đồ. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi có rất nhiều tai ươn và cực khổ song ông vẫn một lòng tận trung vì tổ quốc, điều đó đã trở thành truyền thống của gia đình ông : yêu nước, văn hóa và văn học, Và cũng vì lòng yêu nước ấy, khi khởi nghĩa Lam SƠn toàn thắng, ông thừa lệnh Lê Lợi viết ĐCBN, từ đó ông đã gửi 1 phần lời bình của bản thân về tác phẩm ấy. Cuối năm 1427 Nguyễn Trãi viết bài Cáo và đọc vào đầu 1428 trước toàn dân để báo với mọi người biết về sự việc chống Minh. Điều đó chứng tỏ chiến tranh đã kết thúc 20 năm đô hộ của giặc minh và kết thúc 10 năm diệt thù của quân dân ta mà Nguyễn Trãi đã đề cập đến. Hơn thế nữa, sự việc ấy đã mở ra một kỉ nguyên mới, bắt đầu một cuộc sống độc lập hòa bình của dân tộc và đất nước Đại Việt. Khi nói đến Cáo, Cáo là một thể văn nghị luận có từ thời cổ Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dung để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn cho mọi người cùng biết, mang ý nghĩa như một sự kiện trọng đãi, có tình chất quốc gia. Chính thế, tác phẩm ĐCBN của Nguyễn Trãi có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập. ĐCBN mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập. thể hiện được luận đề của chính nghĩa là ở đây : tư tưởng nhân nghĩa theo quan niệm nho giáo, nó là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí mà ‘’ cốt ở yêu dân’’ trong câu: "Từng nghe, Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo’’ Từ đó ,ta hiểu được Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng : ‘’ lấy dân làm gốc, làm cho dân được sống yên lành hạnh phúc.’’. Nghệ thuật của ông đưa ra đó là biện pháp so sánh, câu văn biền ngẫu song đôi mang cốt cách của nhà chính trị tài ba. Bài Cáo của Nguyễn Trãi đã vạch trần được tội ác của kẻ thù: "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế Nặng thuế khóa… Vét sản vật, bắt chim trả…’’ Chỉ một vài tội ác như thế cũng đủ lên áng bọn giặc Minh. Ý ở đây, Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp nói lên tội ác tày trời của giặc Minh : Nghệ thuật phóng đãi, lấy cái vô hạn vô cùng của tự nhiên để nhấn mạnh cái vô hạn vô cùng của tội ác, hủy hoại cuộc sống của con người bằng cách diệt chủng. Nếu như nói tội ác của giặc Minh là vô hạn thì nước Đại Việt ta nổi dậy có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân thù. Hình ảnh Lê Lợi là một co người tuy bình thường nhưng có ý tưởng hoài bão lớn lao cùng với sự đoàn kết một long của nhân dân ta đã làm nên sự tất thắng. Qua đó, ta thấy được hình tượng ngôn từ thật màu sắc, có âm thanh, nhịp điệu mang đặc điểm của bút pháp anh hùng ca, hình tượng phong phú đa dạng, đo bằng sự kì vĩ lớn rộng của thiên nhiên cùng với động từ mạnh, chuyển dồn dập, dữ dội động từ và tính từ chỉ mức độ, khi thế chiến thắng của ta, sự thất bại của địch, câu văn dài ngắn biến hóa linh hoạt. Kết thúc chiến tranh, mở ra một kỉ nguyên hòa bình : giọng văn thư thái, nhẹ nhàng, hả hê và sự tuyên bố nền độc lập dân tộc được thống nhất, rút ra bài học kinh nghiệm cho dân ta và bài học ‘’ dạy bảo ‘’ cho địch, sự kết hợp tinh tế giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại ‘’ trên dưới một lòng ‘’, quyết tâm của nhân dân xây dựng nền thái bình vững chắc. Tóm lại. ĐCBN mạng nội dụng trong quan niệm nho gia hầu như không có, đây là tư tưởng tiến bộ của chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt, ranh giới, địa phận – lãnh thổ, phong tục tập quán, có lịch sử riêng, chế độ riêng với nhân tài phong kiến, những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lí không thể phủ nhận, lột tả tính chất tự nhiên, lâu đời của nước Đại Việt. Trải qua bao cuộc đấu tranh cũng như những trang lịch sử được vạch ra, ý nghĩa nhất là cuộc khời nghĩa Lam sơn chứng minh được sử tài ba của LÊ Lợi và văn hào Nguyễn Trãi. Ông là người có nổi oan thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, là một nhân vật lịch sử vĩ đại tiêu biểu trong quá khứ – một bậc đai anh hung dân tộc – nhân vật toàn tài hiếm có. Từ ĐCBN, Nguyễn Trãi gợi tả bút pháp đặc sắc làm cho tôi cảm thấy tự hào, học hỏi được bởi long yêu nước, long đoàn kết của dân tộc ta qua bao nhiêu năm tháng kháng chiến giàn độc lập.Nếu là người Việt Nam thì thật tiếc cho những ai đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam mà không biết đến nhà chính trị tài ba Nguyễn Trãi. Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài làm 2 Nước Việt Nam ta từ lâu đã nổi tiếng thế giới với lịch sử dân tộc hào hùng với biết bao nhà quân sự nổi tiếng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ, Võ Nguyên Giáp… Không chỉ đánh giặc giỏi mà người Việt Nam còn đóng góp cho nhân loại nhiều nhà tư tưởng, nhiều nhà văn hoá lớn tầm cỡ thế giới. Và người đầu tiên trong lịch sử thế giới cố gắng tìm kiếm và đã đưa ra được một định nghĩa dân tộc "tương đối có hệ thống và toàn diện" không ai hết đó chính là Nguyễn Trãi – một con người Việt Nam. Ngoài việc là một nhà quân sự, chính trị, một nhà ngoại giao tài ba lỗi lạc, ông còn là một nhà văn kiệt xuất, là người có công đầu trong việc phát triển nền văn hoá, văn học dân tộc. Và nếu như người ta lấy Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ là những dấu mốc đánh dấu chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời kỳ trung đại thì phải đến Đại cáo bình ngô của Nguyễn Trãi, ý thức độc lập chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nước và dân, vấn đề nhân nghĩa mới thực sự phát triển rực rỡ. Nguyễn Trãi (1380 – 1442), quê ở Hà Tây, là một tài năng lỗi lạc hiếm có. Đại cáo bình Ngô là bài cáo ông viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt. Với Đại cáo bình Ngô, ông đã thật sự khai sáng cho nên văn học tiếng Việt. Bài Cáo có kết cấu gồm ba phần, viết bằng thể văn biền ngẫu, không những mang tính chính luận trang trọng mà còn có lập luận sắc bén, chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Chính vì vậy, tác phẩm được người đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là “thiên cổ hùng văn”, là lời tổng kết đầy xúc động về cuộc kháng chiến anh dũng chống quân Minh xâm lược. Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa. Mở đầu bài cáo cũng nói về tư tưởng nhân nghĩa. Quan niệm về dân tộc của ông đã vượt xa Nho giáo để tiếp cận đến những tri thức hoàn toàn mới. Nó được nâng lên thành lý tưởng cao cả mà suốt đời ông quyết tâm theo đuổi, đó là chiến đầu vì dân, vì yên dân mà phải quyết tâm trừ bạo. Rõ ràng, Nguyễn Trãi đã đem đạo đức của mình đặt vào giữa lòng chiến tranh. Ông khẳng định một chách khoan thai, chặt chẽ về tư cách độc lập, bình đẳng của dân tộc. Nước ta là một đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, cũng có hào kiệt và chế độ vua như bất kì một quốc gia độc lập tự chủ nào. Đọc áng văn trên, có thể thấy Nguyễn Trãi đã tiến một bước dài trong việc tìm kiếm khái niệm dân tộc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống xâm lược. Quan niệm đó được hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, là cơ sở cho lý luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền. Nếu như ở Lý Thường Kiệt, quan niệm về chủ quyền của quốc gia còn khoác cái vỏ thần bí và trừu tượng của “sách trời” thì lập luận của Nguyễn Trãi trong bài nay lại càng thuyết phục hơn bởi ông nói có sách mách có chứng, tất cả những điều ông nói ở đây đều đã được chứng minh qua lịch sử. Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo đều xuất phát từ chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Nguyên lý chính nghĩa, chân lý độc lập và chủ quyền của dân tộc đã được Nguyễn Trãi đúc kết ở đây, cũng như ông đã rút ra một điều rằng, không có gì có thể thay đổi lòng tự hào dân tộc. Năm 1407,nhà minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ "phù Trần diệt Hồ",nhưng sau đó,chúng đã chia cắt đất nước ta thành quận, huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác. Chính vì vậy, nối tiếp mạch thơ hùng hồn, Nguyễn Trãi đã viết nên “bản cáo trạng” về tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong suốt 20 năm trên mảnh đất Đại Việt. Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tỏm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta. Ông đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc một cách cô đọng và hàm súc qua sự kết hợp giữa những hình ảnh mang tính khái quát với những hình ảnh có tính cụ thể, sinh động. Giọng văn tuy rất tỉnh táo khi kể về tội ác của giặc, nhưng vẫn bộc lên cảm xúc đau nhói đến tận tâm can của một con người hết mực yêu nước thương dân. Đó còn là kết quả của sự suy ngẫm, của những phút giây thao thức, trăn trở "Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông", của những thể nghiệm, những mất mát lớn lao, thậm chí phải đổi bằng máu của biết bao “dân đen, con đỏ". Trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Trãi đã thoát khỏi tư tưởng trung hiếu nhỏ hẹp, đặt lòng yêu nước thương dân đó lên trên tất cả. Ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi. Cách kể tội, luận tội đặc sắc chỉ trong một số câu văn biền ngẫu linh hoạt nhưng đây thực sự là một bản án đanh thép, đẫm máu và nước mắt. Từ khi kháng chiến bùng nổ đến khi kết thúc thắng lợi, đó là cả một quá trình gian nan vất vả khi tướng, quân sĩ và nhân dân cùng nhau đồng sức đồng lòng chiến đấu. Đoạn tiếp theo của Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã tuần tự giới thiệu từng bước tiến của cuộc chiến, từ những khó khăn ban đầu, những thuận lợi cơ bản cũng như bức tranh toàn cảnh giữa quân ta và quân giặc. Ngay từ ngày đầu kháng chiến, quân ta đã gặp không ít khó khăn: nhân tài hiếm hoi, lương khố cạn kiệt, hoàn cảnh ngặt nghèo nhưng nổi bật trong đó là hình ảnh người anh hùng áo vải Lê Lợi và tinh thần quyết tâm vượt qua khó khăn để tiến hành kháng chiến của quân và dân ta. Nguyễn Trãi suốt đời gắn bó với nhân dân, ở ông, tổ quốc và nhân dân là một không chỉ có mối liên hệ tình cảm sâu sắc mà ông còn nhận thức được một sức mạnh to lớn đang lan toả khắp trái tim của nhân dân, đó chính là lòng yêu nước. Chính lòng yêu nước, ý chí khắc phục gian nan và tinh thần đoàn kết đã tạo nên những thuận lợi cơ bản, làm cơ sở để cuộc kháng chiến dẫn đến thành công. Rõ ràng Nguyễn Trãi đã nhìn nhận một cách bao quát nhưng thấu đáo về tiềm năng của cuộc kháng chiến. Và bằng một giọng văn nhanh, mạnh, gấp gáp như một bản anh hùng ca, Nguyễn Trãi đã góp phần khắc sâu thêm nguyên nhân dẫn đến chiến thắng oanh liệt của ta và nguy cơ thất bại thảm hại của kẻ thù. Đoạn thơ cuối cùng là lời tuyên bố, khẳng định nền hoà bình độc lập của dân tộc. Giọng thơ của Nguyễn Trãi dàn trải, hùng hồn càng tô đậm thêm cho cái “chính nghĩa” của lập trường “chính nghĩa” trong con người ông. Lời tuyên bố trang nghiêm, trịnh trọng về nền độc lập dân tộc đủ cho thấy Nguyễn Trãi rất tự hào vì những gì mà cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành được. Không những thế, ở ông còn toát lên niềm tin và quyết tâm xây dựng một đất nước thái bình, thịnh trị. Bởi đất nước có yên bình thì nhân dân mới được ấm no.Tấm lòng ông luôn canh cánh tâm niệm một điều vì nhân dân, ông quan niệm phải luôn lo trước điều thiên hạ lo, vui sau cái vui của thiên hạ. Cũng bởi yêu thương nhân dân, tôn trọng và biết ơn nhân dân nên khi đã làm quan rất lớn của triều đình, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống cuộc sống giản dị, cần kiệm liêm chính. Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi kết thúc một cách hoành tráng, thật là một bản Tuyên ngôn độc lập hào hùng của dân tộc. Thật tiếc rằng với một tầm cao trí tuệ vượt trước thời đại, với tấm lòng nhân nghĩa hiếm có như vậy nhưng Nguyễn Trãi lại phải chịu một thảm án đau đớn nhất trong lịch sử dân tộc. Nhưng nhân dân và lịch sử luôn công bằng, nhà Lê sau đó đã tìm cách tẩy oan cho Nguyễn Trãi. Tài năng, đức độ và những cống hiến của Nguyễn Trãi với triều đại và dân tộc mãi mãi được nhân dân ghi ơn, cũng như bản hùng ca Đại cáo bình Ngô Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng nói của một dân tộc bất khuất, anh hùng. Từ khóa tìm kiếm:giới thiệu Nguyễn Trãi và Đại cáo bình Ngô một áng văn thiên cổ Bài viết liên quanThuyết minh về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều – Bài tập làm văn số 6 lớp 10Giới thiệu về Trương Hán Siêu và bài “Phú sông Bạch Đằng” nổi tiếng của ông – Bài tập làm văn số 6 lớp 10Bài tập trắc nghiệm Vật lý lớp 12 Tán sắc ánh sáng (phần 2)Đề luyện thi đại học môn Hóa học số 4Bài tập trắc nghiệm Vật lý lớp 12 Mạch có R, L, C mắc nối tiếp (phần 2)Bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 10 Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn hóa truyền thống Ấn Độ (phần 1)Bài tập trắc nghiệm GDCD lớp 12 Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ (phần 2)Bài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 10 Bài 11: Luyện tập: Bảng tuần hoàn, sự biến đổi tuần hoàn cấu hình electron nguyên tử và tính chất của các nguyên tố hóa học

Xem nhanh nội dung

Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài làm 1

Để lại cho đời một kho tàng văn học Việt Nam, những tác phẩm quý giá, đặc sắc cho nghệ thuật văn chương, khi nhắc đến ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ, người đời lại nhớ đến văn hào–bậc đại anh hùng dân tộc đó là nhà thơ lớn Nguyễn Trãi

Ông sinh năm 1380 mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại sau dời về Nhị Khê. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long- một nho sinh nghèo, học giỏi, đổ Tiến sĩ. Mẹ là Trần Thị Thái – Con quan tư đồ. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi có rất nhiều tai ươn và cực khổ song ông vẫn một lòng tận trung vì tổ quốc, điều đó đã trở thành truyền thống của gia đình ông : yêu nước, văn hóa và văn học, Và cũng vì lòng yêu nước ấy, khi khởi nghĩa Lam SƠn toàn thắng, ông thừa lệnh Lê Lợi viết ĐCBN, từ đó ông đã gửi 1 phần lời bình của bản thân về tác phẩm ấy.

Cuối năm 1427 Nguyễn Trãi viết bài Cáo và đọc vào đầu 1428 trước toàn dân để báo với mọi người biết về sự việc chống Minh. Điều đó chứng tỏ chiến tranh đã kết thúc 20 năm đô hộ của giặc minh và kết thúc 10 năm diệt thù của quân dân ta mà Nguyễn Trãi đã đề cập đến. Hơn thế nữa, sự việc ấy đã mở ra một kỉ nguyên mới, bắt đầu một cuộc sống độc lập hòa bình của dân tộc và đất nước Đại Việt.

Khi nói đến Cáo, Cáo là một thể văn nghị luận có từ thời cổ Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dung để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn cho mọi người cùng biết, mang ý nghĩa như một sự kiện trọng đãi, có tình chất quốc gia. Chính thế, tác phẩm ĐCBN của Nguyễn Trãi có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.

ĐCBN mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập. thể hiện được luận đề của chính nghĩa là ở đây : tư tưởng nhân nghĩa theo quan niệm nho giáo, nó là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí mà ‘’ cốt ở yêu dân’’ trong câu:

"Từng nghe,

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo’’

Từ đó ,ta hiểu được Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng : ‘’ lấy dân làm gốc, làm cho dân được sống yên lành hạnh phúc.’’. Nghệ thuật của ông đưa ra đó là biện pháp so sánh, câu văn biền ngẫu song đôi mang cốt cách của nhà chính trị tài ba.

Bài Cáo của Nguyễn Trãi đã vạch trần được tội ác của kẻ thù:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế

Nặng thuế khóa…

Vét sản vật, bắt chim trả…’’

Chỉ một vài tội ác như thế cũng đủ lên áng bọn giặc Minh. Ý ở đây, Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp nói lên tội ác tày trời của giặc Minh : Nghệ thuật phóng đãi, lấy cái vô hạn vô cùng của tự nhiên để nhấn mạnh cái vô hạn vô cùng của tội ác, hủy hoại cuộc sống của con người bằng cách diệt chủng.

Nếu như nói tội ác của giặc Minh là vô hạn thì nước Đại Việt ta nổi dậy có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân thù. Hình ảnh Lê Lợi là một co người tuy bình thường nhưng có ý tưởng hoài bão lớn lao cùng với sự đoàn kết một long của nhân dân ta đã làm nên sự tất thắng. Qua đó, ta thấy được hình tượng ngôn từ thật màu sắc, có âm thanh, nhịp điệu mang đặc điểm của bút pháp anh hùng ca, hình tượng phong phú đa dạng, đo bằng sự kì vĩ lớn rộng của thiên nhiên cùng với động từ mạnh, chuyển dồn dập, dữ dội động từ và tính từ chỉ mức độ, khi thế chiến thắng của ta, sự thất bại của địch, câu văn dài ngắn biến hóa linh hoạt.

Kết thúc chiến tranh, mở ra một kỉ nguyên hòa bình : giọng văn thư thái, nhẹ nhàng, hả hê và sự tuyên bố nền độc lập dân tộc được thống nhất, rút ra bài học kinh nghiệm cho dân ta và bài học ‘’ dạy bảo ‘’ cho địch, sự kết hợp tinh tế giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại ‘’ trên dưới một lòng ‘’, quyết tâm của nhân dân xây dựng nền thái bình vững chắc.

Tóm lại. ĐCBN mạng nội dụng trong quan niệm nho gia hầu như không có, đây là tư tưởng tiến bộ của chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt, ranh giới, địa phận – lãnh thổ, phong tục tập quán, có lịch sử riêng, chế độ riêng với nhân tài phong kiến, những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lí không thể phủ nhận, lột tả tính chất tự nhiên, lâu đời của nước Đại Việt.

Trải qua bao cuộc đấu tranh cũng như những trang lịch sử được vạch ra, ý nghĩa nhất là cuộc khời nghĩa Lam sơn chứng minh được sử tài ba của LÊ Lợi và văn hào Nguyễn Trãi. Ông là người có nổi oan thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, là một nhân vật lịch sử vĩ đại tiêu biểu trong quá khứ – một bậc đai anh hung dân tộc – nhân vật toàn tài hiếm có. Từ ĐCBN, Nguyễn Trãi gợi tả bút pháp đặc sắc làm cho tôi cảm thấy tự hào, học hỏi được bởi long yêu nước, long đoàn kết của dân tộc ta qua bao nhiêu năm tháng kháng chiến giàn độc lập.Nếu là người Việt Nam thì thật tiếc cho những ai đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam mà không biết đến nhà chính trị tài ba Nguyễn Trãi.

Giới thiệu Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo – một áng “thiên cổ hùng văn” – Bài làm 2

Nước Việt Nam ta từ lâu đã nổi tiếng thế giới với lịch sử dân tộc hào hùng với biết bao nhà quân sự nổi tiếng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ, Võ Nguyên Giáp… Không chỉ đánh giặc giỏi mà người Việt Nam còn đóng góp cho nhân loại nhiều nhà tư tưởng, nhiều nhà văn hoá lớn tầm cỡ thế giới. Và người đầu tiên trong lịch sử thế giới cố gắng tìm kiếm và đã đưa ra được một định nghĩa dân tộc "tương đối có hệ thống và toàn diện" không ai hết đó chính là Nguyễn Trãi – một con người Việt Nam. Ngoài việc là một nhà quân sự, chính trị, một nhà ngoại giao tài ba lỗi lạc, ông còn là một nhà văn kiệt xuất, là người có công đầu trong việc phát triển nền văn hoá, văn học dân tộc. Và nếu như người ta lấy Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ  là những dấu mốc đánh dấu chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời kỳ trung đại thì  phải đến Đại cáo bình ngô của Nguyễn Trãi, ý thức độc lập chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nước và dân, vấn đề nhân nghĩa mới thực sự phát triển rực rỡ.

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), quê ở Hà Tây, là một tài năng lỗi lạc hiếm có. Đại cáo bình Ngô là bài cáo ông viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt. Với Đại cáo bình Ngô, ông đã thật sự khai sáng cho nên văn học tiếng Việt. Bài Cáo có kết cấu gồm ba phần, viết bằng thể văn biền ngẫu, không những mang tính chính luận trang trọng mà còn có lập luận sắc bén, chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Chính vì vậy, tác phẩm được người đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là “thiên cổ hùng văn”, là lời tổng kết đầy xúc động về cuộc kháng chiến anh dũng chống quân Minh xâm lược.

Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa. Mở đầu bài cáo cũng nói về tư tưởng nhân nghĩa. Quan niệm về dân tộc của ông đã vượt xa Nho giáo để tiếp cận đến những tri thức hoàn toàn mới. Nó được nâng lên thành lý tưởng cao cả mà suốt đời ông quyết tâm theo đuổi, đó là chiến đầu vì dân, vì yên dân mà phải quyết tâm trừ bạo. Rõ ràng, Nguyễn Trãi đã đem đạo đức của mình đặt vào giữa lòng chiến tranh. Ông khẳng định một chách khoan thai, chặt chẽ về tư cách độc lập, bình đẳng của dân tộc. Nước ta là một đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, cũng có hào kiệt và chế độ vua như bất kì một quốc gia độc lập tự chủ nào. Đọc áng văn trên, có thể thấy Nguyễn Trãi đã tiến một bước dài trong việc tìm kiếm khái niệm dân tộc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống xâm lược. Quan niệm đó được hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, là cơ sở cho lý luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền. Nếu như ở Lý Thường Kiệt, quan niệm về chủ quyền của quốc gia còn khoác cái vỏ thần bí và trừu tượng của “sách trời” thì lập luận của Nguyễn Trãi trong bài nay lại càng thuyết phục hơn bởi ông nói có sách mách có chứng, tất cả những điều ông nói ở đây đều đã được chứng minh qua lịch sử. Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo đều xuất phát từ chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Nguyên lý chính nghĩa, chân lý độc lập và chủ quyền của dân tộc đã được Nguyễn Trãi đúc kết ở đây, cũng như ông đã rút ra một điều rằng, không có gì có thể thay đổi lòng tự hào dân tộc.

Năm 1407,nhà minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ "phù Trần diệt Hồ",nhưng sau đó,chúng đã chia cắt đất nước ta thành quận, huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác. Chính vì vậy, nối tiếp mạch thơ hùng hồn, Nguyễn Trãi đã viết nên “bản cáo trạng” về tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong suốt 20 năm trên mảnh đất Đại Việt. Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tỏm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta. Ông đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc một cách cô đọng và hàm súc qua sự kết hợp giữa những hình ảnh mang tính khái quát với những hình ảnh có tính cụ thể, sinh động. Giọng văn tuy rất tỉnh táo khi kể về tội ác của giặc, nhưng vẫn bộc lên cảm xúc đau nhói đến tận tâm can của một con người hết mực yêu nước thương dân. Đó còn là kết quả của sự suy ngẫm, của những phút giây thao thức, trăn trở "Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông", của những thể nghiệm, những mất mát lớn lao, thậm chí phải đổi bằng máu của biết bao “dân đen, con đỏ". Trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Trãi đã thoát khỏi tư tưởng trung hiếu nhỏ hẹp, đặt lòng yêu nước thương dân đó lên trên tất cả.

Ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi. Cách kể tội, luận tội đặc sắc chỉ trong một số câu văn biền ngẫu linh hoạt nhưng đây thực sự là một bản án đanh thép, đẫm máu và nước mắt.

Từ khi kháng chiến bùng nổ đến khi kết thúc thắng lợi, đó là cả một quá trình gian nan vất vả khi tướng, quân sĩ và nhân dân cùng nhau đồng sức đồng lòng chiến đấu. Đoạn tiếp theo của Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã tuần tự giới thiệu từng bước tiến của cuộc chiến, từ những khó khăn ban đầu, những thuận lợi cơ bản cũng như bức tranh toàn cảnh giữa quân ta và quân giặc. Ngay từ ngày đầu kháng chiến, quân ta đã gặp không ít khó khăn: nhân tài hiếm hoi, lương khố cạn kiệt, hoàn cảnh ngặt nghèo nhưng nổi bật trong đó là hình ảnh người anh hùng áo vải Lê Lợi và tinh thần quyết tâm vượt qua khó khăn để tiến hành kháng chiến của quân và dân ta. Nguyễn Trãi suốt đời gắn bó với nhân dân, ở ông, tổ quốc và nhân dân là một không chỉ có mối liên hệ tình cảm sâu sắc mà ông còn nhận thức được một sức mạnh to lớn đang lan toả khắp trái tim của nhân dân, đó chính là lòng yêu nước. Chính lòng yêu nước, ý chí khắc phục gian nan và tinh thần đoàn kết đã tạo nên những thuận lợi cơ bản, làm cơ sở để cuộc kháng chiến dẫn đến thành công. Rõ ràng Nguyễn Trãi đã nhìn nhận một cách bao quát nhưng thấu đáo về tiềm năng của cuộc kháng chiến. Và bằng một giọng văn nhanh, mạnh, gấp gáp như một bản anh hùng ca, Nguyễn Trãi đã góp phần khắc sâu thêm nguyên nhân dẫn đến chiến thắng oanh liệt của ta và nguy cơ thất bại thảm hại của kẻ thù.

Đoạn thơ cuối cùng là lời tuyên bố, khẳng định nền hoà bình độc lập của dân tộc. Giọng thơ của Nguyễn Trãi dàn trải, hùng hồn càng tô đậm thêm cho cái “chính nghĩa” của lập trường “chính nghĩa” trong con người ông. Lời tuyên bố trang nghiêm, trịnh trọng về nền độc lập dân tộc đủ cho thấy Nguyễn Trãi rất tự hào vì những gì mà cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành được. Không những thế, ở ông còn toát lên niềm tin và quyết tâm xây dựng một đất nước thái bình, thịnh trị. Bởi đất nước có yên bình thì nhân dân mới được ấm no.Tấm lòng ông luôn canh cánh tâm niệm một điều vì nhân dân, ông quan niệm phải luôn lo trước điều thiên hạ lo, vui sau cái vui của thiên hạ. Cũng bởi yêu thương nhân dân, tôn trọng và biết ơn nhân dân nên khi đã làm quan rất lớn của triều đình, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống cuộc sống giản dị, cần kiệm liêm chính. Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi kết thúc một cách hoành tráng, thật là một bản Tuyên ngôn độc lập hào hùng của dân tộc.

Thật tiếc rằng với một tầm cao trí tuệ vượt trước thời đại, với tấm lòng nhân nghĩa hiếm có như vậy nhưng Nguyễn Trãi lại phải chịu một thảm án đau đớn nhất trong lịch sử dân tộc. Nhưng nhân dân và lịch sử luôn công bằng, nhà Lê sau đó đã tìm cách tẩy oan cho Nguyễn Trãi. Tài năng, đức độ và những cống hiến của Nguyễn Trãi với triều đại và dân tộc mãi mãi được nhân dân ghi ơn, cũng như bản hùng ca Đại cáo bình Ngô Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng nói của một dân tộc bất khuất, anh hùng.


Từ khóa tìm kiếm:

0