18/06/2018, 17:09

Đoạn kết cuộc đời nữ tướng Bùi Thị Xuân

Bùi Thị Xuân – Tranh của họa sĩ Đỗ Duy Anh Việt Jackson Trước khi vào bài Hàng năm cứ vào ngày mùng 5 tháng Giêng, nhân dân Hà Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để ôn lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại nơi đây. Trong không khí hào hùng của lễ hội này, tôi không khỏi suy ...

BUI THI XUAN

Bùi Thị Xuân – Tranh của họa sĩ Đỗ Duy Anh

Việt Jackson

Trước khi vào bài

Hàng năm cứ vào ngày mùng 5 tháng Giêng, nhân dân Hà Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để ôn lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại nơi đây. Trong không khí hào hùng của lễ hội này, tôi không khỏi suy nghĩ về cuộc đời nữ tướng Bùi Thị Xuân, người dù không trực tiếp tham gia trận đánh nhưng vẫn có một ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử nhà Tây Sơn. Bà được nhiều người ca tụng, rằng sống một cuộc đời anh hùng, và chết một cái chết vô cùng bi tráng. Tuy nhiên, tôi đã nghi ngờ rằng sự thật có phải như vậy?

Tôi biết rằng, đây là chủ đề rất nhạy cảm, bởi vẫn còn rất nhiều người sẽ nói đây là hành động “viết lại lịch sử”. Theo báo Nhân Dân (cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam), thì có ba “xu hướng”

– Viết lại lịch sử vì cho rằng thiếu chân thực (về tư liệu) và thiếu hiểu biết (về phương pháp). Chỉ được phép ủng hộ xu hướng này.

– Viết lại lịch sử để tô vẽ bản thân.

– Viết lại lịch sử với mưu đồ chính trị.[1]

Vào bài

Đối với những người không bao giờ động vào quyển sách, tư liệu đầu tiên họ nghĩ đến đến là Wikipedia. Wikipedia viết về Bùi Thị Xuân, truy cập ngày 30/1/2018 viết:

Tất cả những điều trên, có thể khiến cho những người hiểu biết nông cạn về lịch sử ngộ nhận những điều trên là chính xác, rằng Bùi Thị Xuân đã có một cuộc đối đáp đậm tính sử thi với vua Gia Long trước khi bị voi giày.

Về hình phạt bị voi giày, Wikipedia về Bùi Thị Xuân, truy cập ngày 22/1/2018 viết:

Tuy nhiên, sau khi đọc lại một vài lần bài trên Wikipedia về Bùi Thị Xuân, có lẽ tất cả mọi người đều thấy có một vấn đề: “Trích tài liệu của giáo sĩ De La Bissachère” mà không hề nói đến tài liệu đó là tài liệu nào. Trước hết, ta cần đặt ra câu hỏi: Bissachère là ai, và tài liệu đó là tài liệu nào?

Tiểu sử của giáo sĩ De La Bissachèrre

Pierre-Jacques Lemonnier de La Bissachère sinh khoảng năm 1764 tại Angers. Học đạo. Gia nhập hội Thừa sai hải ngoại Paris. Tháng 3/1790, ông rời Orient, sang Bắc Hà hoạt động ở vùng Nghệ An. Theo Maybon, năm 1795, đạo Chúa ở vùng Nghệ An bị đàn áp, ông phải trốn tránh. Từ năm 1798 đến năm 1799, có những đàn áp mới, Bissachère phải sống chui nhủi khổ cực. Tới năm 1800, tình hình khá hơn, Bissachère trở lại Nghệ An. Khi Gia Long đánh ra Bắc, đầu tháng 7/1802 đến Nghệ An, Giám Mục Castorie và La Bissachère đến chào. Năm 1806, Bissachère bị bệnh, phải về Macao, tại đây, năm sau, ông gặp và trao cho viên sĩ quan kỵ binh Renouard de Sainte-Croix, tập bản thảo Ký sự của ông, trước khi về Anh tỵ nạn (Hội Thừa sai Pháp sau cách mạng 1789 phải chạy sang Anh). Tại London, sinh sống khó khăn, ông gặp nam tước Jean Baptiste de Montyon ở Pháp sang tỵ nạn chính trị; có lẽ họ đã trao đổi với nhau về cuốn ký sự này. Năm 1815, Pháp trở lại chế độ quân chủ, Louis XVIII lên ngôi, Bissachère về Pháp, trở thành chuyên gia của chính phủ Pháp về tình hình Á Đông, đặc biệt Việt Nam. Ông mất năm 1830.

Trong thời gian Bissachère ở Bắc, vị Giám mục cai quản địa phận Bắc Hà từ năm 1773 đến năm 1823 là Jean Labartette. Ông sinh ở Ainhoa, miền nam Pyrénées ngày 31/1/1744, miền nam Pyrénées; ngày 29/11/1773 đi truyền giáo, được thăng giám mục năm 1774 và mất ở CổVưu, thuộc Quảng Trị ngày 6/8/1823. Theo thư từ ông viết về hội truyền giáo, ta có thể biết đại lược tình hình: từ 1773 đến 1785: đạo Gia Tô ở Bắc Hà được an toàn. Từ khi Nguyễn Huệ chiếm được chính quyền ở Phú Xuân, năm 1786, mọi sự thay đổi: Nguyễn Huệ không thích tôn giáo nói chung, buộc các sư sãi về nhà, làm ruộng, đi lính, đóng cửa chùa chiền, giáo đường và cho lệnh tìm bắt giáo sĩ.

Khi Bissachère đến Bắc Hà trong năm 1790, vua Quang Trung đã đuổi xong quân Thanh và thu phục toàn thể đất Bắc; thời điểm này Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An cũng đã xây xong. Lúc đó Bissachère ở trong vùng Nghệ An, chắc chắn phải chịu sự hà khắc đó.

Về cuốn Ký sự Bissachèrre

Tiếp theo, đầu bài viết đã nêu vấn đề: tài liệu của giáo sĩ Bissachère là gì? Đó là cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của ông De La Bissachère– trong bài sẽ gọi tắt là Ký sự).

Bìa của cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, được bán trên amazon.com

Với niềm cảm phục sâu sắc cho Bùi Thị Xuân, Bissachère đã viết những dòng hết sức hâm mộ sự can đảm và dũng mãnh của bà. Tiếp đó, Bissachère “mô tả” cảnh Gia Long làm nhục hài cốt các vua Tây Sơn và cảnh mẹ con Bùi Thị Xuân bị voi giày với những lời giáo đầu như sau: Vua Gia Long trở về Kinh đô Nam Hà nghỉ ngơi khoảng hai tháng. Sau đó ông lo việc hành hình tù nhân. Một trong những người đầy tớ mà tôi [Bissachère] gửi vào triều để xin vua cho tôi một giấy phép, ở trong danh sách những người có thể vào cung, đứng trước mặt vua trong một tháng, y làm việc trong ngày xử tội, nên y nhìn thấy rõ từ đầu đến cuối. Khi trở về, y đã kể cho tôi nghe, hôm nay tôi không nhớ hết tất cả quang cảnh cực kỳ kinh tởm này, tôi chỉ kể lại những điều khủng khiếp nhất mà về sau mọi người trong nước Nam đều biết.

Nguyên văn tiếng Pháp: Le Roy Gia Long étant arrivé à la Capitale de la Cochinchine s’y reposa pendant deux mois ou environ. Ensuite il s’occupa du supplice de ses prisonniers; un de mes gens que j’avais envoyé à la cour, pour m’obtenir une permission du roy et qui fut porté sur la liste de ceux qui pouvoient entrer au palais et se tenir devant Sa Majesté pendant un mois, se trouva de service le jour de l’éxécution, et il la vit tout entière depuis le commencement jusqu’à la fin. A son retour il m’en a fait le récit, je ne puis m’en rappeler aujourd’hui toutes les circonstances qui d’ailleurs sont extrêmement dégoutantes, je ne rapporterai dont ce que je me souviens, ou ce qui m’a frappé le plus du récit qui m’en a été fait et qui depuis a été publique dans tous les états du roy de Cochinchine.

Đoạn văn này cho thấy bảy điểm đáng chú ý sau:

  1. Việc Gia Long hành hình mà Bissachère mô tả sau đó, không phải là ông ta được xem tận mắt, mà là đầy tớ của ông ta kể lại.
  2. Người “đầy tớ” này được ông sai vào triều để xin một giấy phép của vua để làm gì, không được ghi rõ.
  3. Tại sao “người đầy tớ” của một giáo sĩ, không có chức gì trong triều đình, lại được quyền đứng trước mặt vua trong khoảng thời gian lên đến một tháng?
  4. Nếu như ta tạm hiểu rằng, y được phép hầu Gia Long đến một tháng, vậy tại sao nhà vua lại có chung người hầu với một vị giáo sĩ, mà vị giáo sĩ này vừa phải sống lẩn lút trong rừng?
  5. Ngay cả Giám mục Labartette, người cai quản giáo phận Bắc hà (tương đương với Giám mục Bá Đa Lộc ở trong Nam) cũng phải sống lẩn trốn, khi Gia Long chiếm Phú Xuân không dám ra trình diện. Theo thư của Laurent Barisy gửi M. Marchini, ngày 15/7/1801, vua đã sai ông đi kiếm vị thủ lãnh đạo Gia Tô này. Theo Labartette (ông ở Huế) việc được vua vời ra là một ân huệ lớn. Một giáo sĩ vô danh như Bissachère làm sao có thể “giao thiệp” với vua, chưa nói đến việc gửi đầy tớ vào triều, xin vua này thế này, thế nọ?
  6. Bissachère không hiểu nghi lễ triều đình nước Nam, hoặc cố tình viết lừa người Pháp rằng triều đình Việt Nam như chỗ không người, ai vào cũng được. Trong những dòng văn này, “thế lực” của Bissachère lớn đến độ có quyền gửi “đầy tớ” vào cung xin giấy của vua. Ông ta không hề biết là sứ thần các cường quốc Anh, Pháp đến xin yết kiến mà không có quốc thư cũng không được vua tiếp.
  7. Việc xử tử không thể xảy ra trong cung (palais) như tên “đầy tớ” kể lại.

Qua bảy điểm nêu trên, chứng tỏ Bissachère bịa chuyện để phô trương sự quan trọng của mình.

Sau đó, Bissachere miêu tả việc hành hình Bùi Thị Xuân và con gái: “… ông (Trần Quang Diệu) bị chặt đầu, người con gái tuổi 15, hết sức khả ái, khi cô trông thấy con voi lớn sừng sững tiến đến quật cô, cô hét lên một tiếng thất thanh thê thảm về phía mẹ, nói với bà rằng: “Ôi mẹ ơi cứu con với”! Mẹ cô là người đã cầm đầu quân đội, bảo con: “Mẹ cứu thân mẹ còn chưa được làm sao cứu nổi con. Con phải chịu chết như cha và cả gia đình, còn hơn sống nhục với những kẻ này…” Nhiều người xem muốn cứu cô gái, đã phải quay mặt đi để khỏi nhìn thấy cảnh cô bị hai lần voi tung lên trời, rơi xuống trúng hai ngà voi đâm thủngKhi đến lượt vị nữ anh hùng, tức vợ của vị Thiếu Phó, bà hiên ngang tiến đến trước voi để kích thích nó. Khi bà đến gần, người ta hét lên bắt bà phải quỳ xuống cho voi dễ quật, nhưng bà không quỳ, bà tiếp tục đi tới; người ta kể rằng, mặc dù con vật bị kích thích mạnh, vẫn phải bắt buộc nó mới ném bà lên, vì nó đã nhận ra bà là một trong những chủ cũ của nó; trước khi bị hành hình, người đàn bà can đảm này đã cho đem vào nhà tù nhiều tấm lụa để quấn chân và thân mình tới ngực, tránh cho thân khỏi bị lõa lồ khi chịu cựchình”.

Tranh minh họa Bùi Thị Xuân bị voi giày. Tranh của Phan Thanh Nam.

Bỏ qua những chi tiết dư thừa, ta tập trung vào điểm chính: Bùi Thị Xuân đã chết như thế nào?

Theo Đại Nam thực lục (Thực lục), do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, ta thấy tên vị nữ tướng này được ghi chép lần cuối cùng là trong cuộc giao chiến ở cửa biển Nhật Lệ vào tháng Giêng năm Nhâm Tuất (1802) với quân của Nguyễn Ánh, đoạn đó như sau:

Giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản sai Nguyễn Quang Thùy và tổng quản Siêu phạm lũy Trấn Ninh, tư lệ Đinh Công Tuyết, đô đốc Nguyễn Văn Đằng, đô đốc Lực (không rõ họ) kết với hơn trăm thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi bày thủy trận ở ngoài cửa biển Nhật Lệ.

Vua sai Nguyễn Văn Trương điều bát thủy binh ra biển ngăn ngừa, Pham Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem bộ binh chia đường chống đánh.

Giặc đến sát lũy Trấn Ninh. Vua sai quân Túc trực ra ụ bắn ở cửa, bắn giết được hơn một nghìn quân giặc. Giặc đem hết quân đến sát núi Đâu Mâu, bám vào như kiến mà bò lên. Quân ta từ trên núi thả đá xuống, quân giặc bị đè chết rất nhiều.

Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cưỡi voi thúc quân liều chết đánh từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Vừa gặp thủy binh của Nguyễn Văn Trương, nhân được gió đông bắc đánh phá quân giặc ở ngoài biển, cướp được 20 chiếc thuyền. Bộ binh giặc nghe tin thủy binh thua, sợ mà tan vỡ. Quang Toản chạy về Đông Cao. Nguyễn Văn Kiên đem quân ra hàng…”.

Như thế là sau khi giao chiến với quân của Nguyễn Ánh ở lũy Trấn Ninh, quân Tây Sơn do Bùi Thị Xuân chỉ huy đã bị thất trận và tháo chạy. Từ trận đó về sau, không thấy sử nhà Nguyễn nhắc tới tên của bà nữa.

Về việc Gia Long bắt và giết các vua quan, tướng lĩnh nhà Tây Sơn trong khoảng thời gian từ 6/1801-7/1802 đã được Thực lụcLiệt truyện ghi lại. Những người bị bắt và giết trong khoảng thời gian này gồm:

– Tháng 6/1801, bắt được các tướng Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự ở Quảng Ngãi, giải về Kinh.
– Phò mã Nguyễn Văn Trị và Đô đốc Nguyễn Văn Sách bị bắt ở mặt trận Phú Xuân.
– Nguyễn Thiếp được trở về Nghệ An.
– Các em của Quang Toản là Quang Cương, Quang Tự, Quang Điện và hơn 30 người đàn bà bị đem nộp lấy thưởng tại Quảng Bình.
– Đóng cũi Nguyễn Quang Cương, Tham lĩnh Ngoạn, Tham lĩnh Tuân giải về Bình Định.
– Quang Tự, Quang Điện và Phò mã Nguyễn Văn Trị bị giải về Gia Định, rồi sai giết đi.
– Nội hầu Lê Văn Lợi, Thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư Bộ Lại Hồ Công Diệu ra hàng.
– Tháng 11-12/1801 (tháng 11 ÂL), Thực lục ghi: “Phá hủy mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị xử lăng trì và cắt nát thây”. Rồi ra bố cáo: “Bắt được con cái tướng tá của Nguyễn Văn Huệ nhiều không kể xiết (…) Nay đã phá hủy mồ của vợ chồng giặc Huệ, bêu đầu phơi xác. Đồ đảng của chúng bắt được cũng đều giết hết”.
– Tháng 4/1802, bắt được cả ba người con của Nguyễn Nhạc là Thanh, Hán và Dũng, sai giết cả.
– Tháng 6/1802, bắt được Nguyễn Lân, con Nguyễn Nhạc ở Nghệ An.
– 3/7/1803, thiếu úy Đặng Văn Đằng, Đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng ở Nghệ An.
– Bắt được con Nguyễn Huệ là Quang Bàn cùng Đổng lý Nguyễn Văn Thận ở Thanh Hóa.
– Bắt được con Nguyễn Huệ là Thất, Tham đốc Phạm Văn Điềm, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, sai giết cả.
– Tháng 7/1802, bắt được Thiếu phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An.
– 13/7/1802, bắt được Tư đồ Võ Văn Dũng, sai đóng xiềng giam lại.
– 20/7/1802: (ngày Canh Thân 21/6 năm Nhâm Tuất), Gia Long đến thành Thăng Long. Ra lệnh: Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú thì được miễn tội, gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5 ngày. Nếu quá hạn mà không ra thú, bị người ta bắt được thì làm tội. Những tàn quân của giặc mang theo binh khí trốn về, thì lập tức phái đến cửa quân trao nộp, nếu cất giấu thì xử theo quân pháp.[2]

Vua Cảnh Thịnh, như trên đã nói, đã cùng ba em trai (Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu) cùng ba tướng Văn Dụng, Văn Tứ và đô đốc Tú, đến Xương Giang. Quân bỏ chạy. Nguyễn Quang Thùy thắt cổ tự tử. Những người còn lại bị đóng cũi đưa về Thăng Long.

Tháng 11 năm Nhâm Tuất, nhà Nguyễn làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày 30/11/1802, tế thiên địa. Ngày 1/12/1802, tế hiến phù (dâng những người bắt được) ở Thái Miếu. Thực lục viết:

Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ, áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và 2 tay 2 chân, rồi cho voi xé xác), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ ngoại (sau đổi là Vũ khố). Năm Minh Mạng thứ 2, đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi. Còn đồ đảng là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cái trong ngoài.

Trong bài chiếu gửi toàn dân, có nói rõ tên chức quan tướng bị giết: Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng.[3]

Bè lũ đầu sỏ ở đây có thể hiểu là một phần hay toàn bộ những người bị bắt đã kể trên. Tướng bị bắt nhưng xét “vô danh” như Đô đốc Đinh Công Tuyết, không nỡ giết.

Trên nguyên tắc, người đầu hàng không bị tội, trừ khi, trước đã hàng, sau lại theo Tây Sơn, như Thái bảo Phạm Văn Tham, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Tham đốc Phạm Văn Điềm, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, đều bị giết. Và ta không thấy tên Bùi Thị Xuân đâu, vậy có thể bà đã trốn thoát.

Đoạn sau bài chiếu ấy, viết rõ hơn: “Ngày mồng 6 tháng này (6 tháng 11 năm Nhâm Thân, tức 30/11/1802), tế cáo Trời Đất; ngày mồng 7 (7 tháng 11 năm Nhâm Thân, tức 1/12/1802) yết tế Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy Thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng. Nhạc, Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân”.

Như vậy, bốn người có tội nặng nhất là bốn con của Quang Trung bị voi xé xác. Còn các đại tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, … cùng với “bè lũ đầu sỏ”, đều bị chém bêu đầu. Không hề thấy Thực Lục ghi tên Bùi Thị Xuân trong số những vị tướng bị bắt, cũng chẳng thấy tên bà trong danh sách các tướng bị hành hình. Và nếu đọc kỹ cả Thực lục lẫn Liệt truyện về giai đoạn cuối cùng của Trần Quang Diệu: cầm quân từ Quy Nhơn về, trèo đèo lội suối, luôn luôn phải phòng bị quân Nguyễn truy kích từ mọi ngả; khi bị bắt, cả quân tướng đều hoàn toàn kiệt sức, không còn chống nổi nữa. Như vậy, khó có thể ông gặp được vợ, và Bùi Thị Xuân có muốn tìm chồng cũng không biết đâu mà kiếm; nhất là khi Thực lục chuyên chép những sự kiện xác thực mà còn chẳng ghi chuyện này.

Á Đông có sự kính trọng nhân tài mà người thiển cận như Bissachère không thể hiểu nổi. Như Trần Quang Diệu khi chiếm được thành Bình Định cũng đã khóc trước sự kiên cường của Võ Tánh và làm lễ chôn cất vị anh hùng nhà Nguyễn đã tử tiết rất trọng thể. Bùi Thị Xuân là một con người quả cảm, và đã được sử thần triều Nguyễn mô tả với sự nể phục, thì nếu bà bị hành quyết thì đã có vài dòng trong Thực lục hoặc Liệt truyện ghi lại chuyện đó.

Về tội tử hình và các loại hình xử tử, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Hội điển) ghi:

Có 5 tội hình: tội đánh roi, tội đánh trượng, tội đồ, tội lưu, tội xử tử. Tội xử tử lại chia làm 5 loại: Có tội giảo, tội trảm và tội lăng trì, cưu thủ, lục thi. Nếu kẻ nào mà tội ác quá nặng, thì đem thi hành ngay, không phải đợi đến kỳ xét án; còn các tội khác đều đợi đến hạn mùa thu mới đem thi hành án. Giảo là thắt cổ, trảm là chém đầu, lăng trì là xẻo từng miếng thịt, cưu thủ là chém rồi lấy đầu đem bêu, lục thi là băm xác.

Như vậy, Gia Long cho thêm tội lục thi là băm xác khi xử tử Tây Sơn (trước đó, đời Lê chỉ có giảo, trảm, lăng trì và cưu thủ), và ông đã áp dụng ba loại cực hình sau:

Đối với các con của Quang Trung: Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn, xử án năm voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ đem giã nát rồi vứt đi, còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết, tức là:

– Lăng trì: xử các con Quang Trung, nhưng không cắt từng miếng thịt mà cho 5 voi xé xác.
– Lục thi: nghiền nát hài cốt của Quang Trung và Thái Đức.
– Cưu thủ: chém bêu đầu Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng.

Không nói gì đến Bùi Thị Xuân. Nếu bà bị tử hình, thì cũng ở trong trường hợp của các đại tướng, tức là chém đầu, không thể ở trong trường hợp xử các con của Quang Trung.

Luật Gia Long trong Hội điển không ghi cực hình voi giày. Và trong các hình luật đời trước từ nhà Lê đến nhà Tùy cũng không có lối xử tử này. Các con Quang Trung bị kết án lăng trì, nhưng có lẽ Gia Long thấy hình phạt này quá tàn ác nên thay bằng voi xé xác (vì cho voi xé xác thì chết nhanh hơn là lăng trì, xét cho cùng thì những đứa trẻ này không có tội, tội là ở đời cha đời bác chứ không phải là họ). Cực hình voi xé xác không ghi trong luật, nhưng trường hợp này cho thấy tương đương với lăng trì. Bùi Thị Xuân chỉ là tướng, không thể bị xử nặng hơn chồng, nghĩa là không thể ngang hàng với các con của Quang Trung.

Bissachère là một con người hồ đồ, thích khoe khoang và thiếu hiểu biết về văn hóa Á Đông (mà có khi ông còn không hiểu nổi đến cả văn hóa Pháp của ông). Cần phải nhắc lại cho Bissachère về tội tử hình của cả nước Pháp nữa, vì có lẽ ông cũng không biết đến các hình thức này. Trước cách mạng Pháp 1789, có những cách xử tử sau: la potence (treo cổ), la bucher (đốt), la roue (nghiền xay bánh xe), l’écartèlement (xé xác bằng ngựa, tức tứ/ngũ mã phanh thây), còn décapitation (chém) chỉ dành cho giới quý tộc. Sự nghiền xay bằng bánh xe, sự đốt cháy và ngựa xé xác còn độc ác hơn cả voi xé xác.

Về sự hồ đồ, chúng ta dễ nhận thấy những dòng viết về Bùi Thị Xuân của ông. Đồng ý, rằng ông rất kính trọng bà, và bản thân tôi cũng vậy, nhưng đến nỗi tô hồng hình tượng của bà đến mức bôi nhọ cả Gia Long như vậy, thực sự rất bất hợp lý.

Tiếp đến là về tính thích khoe khoang của giám mục. Ông đã khoe khoang với Montyon và được Montyon ghi lại như sau: Ông Bissachère đã sống 18 năm ở Bắc Hà và Nam Hà, đã đi hầu hết khắp nơi trên đất nước này và các nước lân cận; ông nghe và nói được tiếng và đã có quan hẹ với tất cả mọi tầng lớp dân chúng ở đây. Là vị cha thực tế, tâm giao, cố vấn của giáo dân, khá nhiều trong xứ này, ông giao thiệp với những nhân vật hàng đầu của quốc gia, ông thường hội họp với các quan, chinh ông cũng có văn bằng làm quan; theo lệnh của triều đình, ông có những người Bắc phục dịch riêng cho ông; nhiều lần ông được bệ kiến hoàng đế.

Bissachère trốn chui trốn lủi qua các đợt đàn áp đạo giáo 1795, 1798, 1799 dưới triều Cảnh Thịnh, vậy ông đã làm quan dưới triều vua nào? Khi Gia Long ra Bắc qua Nghệ An, bề trên của ông là giám mục Labarbette (chức vụ của ông ở miền Bắc tương đương Bá Đa Lộc ở miền Nam) còn đi trốn vì chưa biết thái độ Gia Long với đạo thế nào, nói gì đến một giám mục vô danh tiểu tốt như Bissachère.

Cuối cùng, về độ thiếu hiểu biết văn hóa của Bissachère. Đáng nhẽ ra sống 18 năm ở nước ta, Bissachère phải hiểu biết văn hóa Việt hơn cả Dan Hauer. Nhưng không. Khi các tướng tài bị bắt, họ thường được dụ hàng, không dụ hàng được mới xử tử. Trong thời gian nội chiến, có những tướng của Nguyễn Ánh sang phe Tây Sơn và ngược lại. Trần Quang Diệu khi chiếm được thành Bình Định, ông đã khóc trước thi hài Võ Tánh (trước đó Võ Tánh đã tử tiết để đảm bảo an toàn cho quân Nguyễn) rồi làm lễ chôn cất vị anh hùng nhà Nguyễn rất trọng thể.

Kết luận

Đoạn kết cuộc đời nữ tướng Bùi Thị Xuân như thế nào, tôi đã trình bày ở trên. Không hề có chuyện bà bị voi giày, và cũng chẳng hề có cuộc đối đáp đậm chất sử thi với Gia Long như những gì mà giám mục Bissachère viết cả. Vì vậy, tôi tạm đi đến kết luận, Bùi Thị Xuân đã mất tích. Việc bà đã qua đời như thế nào hiện vẫn còn là một nghi vấn lịch sử.

Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 2018.

 

0