24/05/2018, 15:40

Chỉ tiêu đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam

Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp. H =X xk F xk + n nk c H: Hiệu quả tổng hợp của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. X xk : Chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu. F xk : Chỉ tiêu đầy đủ trong nước đối ...

Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp.

H =XxkFxk+ nnkc

H: Hiệu quả tổng hợp của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.

Xxk: Chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu.

Fxk: Chỉ tiêu đầy đủ trong nước đối với xuất khẩu(quy ra ngoại tệ).

C: Chi phí bằng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá.

Một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hai chiều có thể không có lãi ở xuất khẩu nhưng lại có lãi ở nhập khẩu hoặc ngược lại, miễn sao H>0 là kinh doanh có lãi.

Chỉ tiêu hiệu quả tương đối của nhập khẩu.

N nk = F nk xC C x 100 size 12{N rSub { size 8{ ital "nk"} } = { { size 8{F rSub { size 6{ ital "nk"} } ital "xC"} } over {C} } size 12{x"100"}} {}

Nnk: Chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu.

Fnk: Chi phí sản xuất hàng hóa tương tự hàng hoá nhập khẩu quy ra ngoại tệ.

C: Chi phí và ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa.

Chỉ tiêu này phản ánh % lợi nhuận trên vốn ngoại tệ bỏ ra để nhập khẩu lô hàng.

Tỷ suất ngoai tệ đối với hàng hóa nhập khẩu:

K nk = P . Q T n size 12{K rSub { size 8{ ital "nk"} } = { { size 8{P "." Q} } over { size 8{T rSub { size 6{n} } } } } } {}

Là lượng nội tệ thu được khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ.

Knk: Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng hoá nhập khẩu.

Q: Khối lượng lô hàng nhập khẩu.

P: Giá cả hàng hoá ở trong nước tính bằng nội tệ.

Tn:Số ngoại tệ phải chi ra để nhập khẩu lô hàng.

Hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả khi:

P K nk < R size 12{ { { size 8{P} } over { size 8{K rSub { size 6{ ital "nk"} } } } } <R} {}

R: Tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ với nội tệ.

Số vòng quay của vốn lưu động.

Số ngày của một lần luân chuyển:

N = T H 3 = T . VL DT size 12{N= { { size 8{T} } over { size 8{H rSub { size 6{3} } } } } = { {T "." ital "VL"} over { ital "DT"} } } {}

H3: Biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh có khả năng mang lại bao nhiêu vốn doanh thu.

Mức doanh lợi của vốn lưu động:

Mức doanh lợi của vốn lưu động biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận.

Trên thực tế, việc xác định được chính xác và đầy đủ tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nào đó trong nền kinh tế sẽ tạo ra những thuận lợi nhất định trong việc đem lại hiệu quả cho hoạt động đó. Tuy nhiên, việc xác định này phức tạp và chỉ thực hiện được bằng cách chọn lọc ra những nhân tố cơ bản để nghiên cứu. Trong phạm vi bài luận này, tôi cũng chỉ đưa ra một số những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ như sau:

Trình độ khoa học- công nghệ của Việt nam.

Trong thời đại khoa học kỹ thuật cao, trong dòng thác lớn kinh tế toàn cầu hoá, khoa học kỹ thuật công nghệ đã trở thành thước đo và nguồn gốc đánh giá hiện trạng phát triển của mỗi quốc gia. Bất kỳ một chế độ kinh tế nào trước hết đều do sự phát triển khoa học kỹ thuật, quy mô, phạm vi và hiệu quả của thành tựu khoa học kỹ thuật vận dụng vào hoạt động kinh tế quyết định.

Ưu thế cạnh tranh của một nước là dựa trên giá trị tăng thêm của lao động nước đó, khai thác nguồn sức người là biện quan trọng nâng cao sức cạnh tranh. Tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh tế tăng trưởng và xã hội phát triển hay không cuối cùng là do chất lượng tài nguyên sức người của mỗi quốc gia quyết định. Chỉ bằng con đường đẩy nhanh tốc độ tăng thêm tri thức và kỹ năng của người lao động thì mới tăng nhanh việc khai thác và tận dụng hiệu quả thành quả khoa học kỹ thuật.

Việt nam hiện nay đang cố gắng khắc phục một số tình trạng là rất nhiều các công trình thiết bị toàn bộ nhập khẩu về chỉ đạt từ 30-35% công suất, một số công trình không sử dụng được, nhiều liên doanh đã bị biến thành một nơi tiêu thụ hàng hoá tồn kho ứ đọng của các máy móc thiết bị cũ đã qua sử dụng hoặc đã lạc hậu của phía nước ngoài. Hàm lượng công nghệ của nhiều nhà máy thể hiện trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp khoảng 20%, ngược lại chi phí vật tư nguyên vật liệu nhập ngoại còn cao hơn 70%. Đó là trong khi xây dựng nhà máy, nhiều nhà đầu tư do trình độ kém, không hiểu biết và quan tâm tới lợi ích xã hội nên đã cố tình cắt giảm nhiều hạng mục xử lý chất thải, máy móc thiết bị bảo vệ người lao động và môi trường. Các yếu tố có hại trong môi trường lao động không chỉ gây ô nhiễm tại nơi làm việc mà còn ảnh hưởng xấu đến cả môi trường sống của dân cư xung quanh. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có 1,69% tổng số người lao động phải làm việc với máy móc thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động nhưng chưa được cấp giấy phép hoặc giấy phép đã hết sử dụng cần phải được đăng kiểm lại; 7,33% tổng số người lao động phải làm việc với máy móc thiết bị mà bộ phận che chắn các yếu tố nguy hiểm không có hoặc không đảm bảo; 2,35% máy móc thiết bị đang ở trong tình trạng cũ, hỏng, rò rỉ các chất độc hại ra môi trường.

Rõ ràng là hiệu quả của những công trình thiết bị toàn bộ ở Việt nam đã không đạt được như ý muốn, chưa phát huy được hết vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế quốc dân. Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng yếu kém về phát triển kinh tế, với những nhà máy, công trình thiết bị toàn bộ nhập khẩu về chất lượng không cao, chất lượng sản phẩm chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới, hiệu quả kinh tế xã hội thấp... chính là do chất lượng " Tài nguyên sức người" của Việt nam không cao. Tài nguyên sức người là một khái niệm hoàn chỉnh, bao gồm người lao động trí óc, người lao động chân tay, là tổng hoà toàn thể cán bộ nhân viên các ngành, các nghề, các tầng lớp, các loại hình trong xã hội. Việc nhập khẩu một công trình thiết bị toàn bộ không chỉ do một doanh nghiệp, một nhóm người nào đó đứng ra quyết định mà đòi hỏi có sự phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền của Chính Phủ, những cơ quan này, thường không có đủ cán bộ chuyên môn để thẩm định một dự án đầu tư, một dự án xin vay vốn, thẩm định công nghệ của một công trình cũng như tính toán đầy đủ hiệu quả kinh tế-xã hội mà công trình đó có khả năng mang lại... Theo như "Báo cáo đánh giá Chính sách công nghệ và đổi mới của Việt nam" của nhóm chuyên gia quốc tế IDRC thì cơ sở hạ tầng công nghệ của Việt nam còn thiếu hiệu quả, tuy rằng con người Việt nam vốn cần cù chịu khó và ham học hỏi, nhưng hệ thống nghiên cứu và triển khai(Research and Deverlopmemt-R&D) của Việt nam còn chưa phù hợp, nếu không phát huy được thế mạnh về tri thức khoa học.

Nhập khẩu công nghệ nói chung và máy móc thiết bị nói riêng là lợi thế của nước công nghiệp hoá muộn trong việc tận dụng thành tựu khoa học công nghệ của nước nhà trong việc tiếp nhận và quản lý công nghệ thì lợi thế sẽ trở thành yếu thế, thậm chí biến đất nước thành bãi rác thải công nghệ của các nước phát triển.

Hệ thống chính sách và khung pháp lý của Việt nam.

Hoàn cảnh đất nước trong từng giai đoạn cụ thể là yếu tố quyết định các chính sách phù hợp tương ứng về xây dựng phát triển kinh tế nói chung và nhập khẩu máy móc công nghệ nói riêng. Những chính sách này có thể có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, khi nền kinh tế Việt nam còn quá thiếu thốn, thường xuyên xảy ra tình trạng nhập khẩu ồ ạt và tràn lan, quá lạm dụng nguồn vốn vay ưu đãi và viện trợ không hoàn lại mà các nước bạn dành cho, để thực hiện cho mục tiêu xây dựng một nền công nghiệp nặng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nguồn vốn vay nước ngoài có thể đã đạt được tận dụng hiệu quả hơn nếu có chính sách nhập khẩu đúng đắn và phù hợp cùng với chính sách xây dựng phát triển kinh tế đúng hướng. Hậu quả là đã để lại cho công cuộc hiện đại hoá đất nước cho đến cả những năm sau này nhiều "vết thương", gây cản trở cho công cuộc đẩy mạnh phát triển kinh tế.

Kể từ sau khi tiến hành đổi mới và mở cửa, Chính Phủ Việt nam đã rất cố gắng đưa ra những chính sách vĩ mô có tác dụng tích cực trong định hướng và điều tiết nền kinh tế nói chung, cũng như xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với bối cảnh trong nước và thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế và đặc biệt là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá... Không thể phủ nhận những thành tựu của những chính sách này trong công cuộc cải tổ lại nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế quan liêu bao cấp trước kia sang nền kinh tế với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, đưa Việt nam lên một vị thế mới trên trường quốc tế, được tôn trọng và được quan tâm hơn.

Việt nam đã tránh khỏi sự sụp đổ hoàn toàn về thể chế như đã xảy ra ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu trước đây, điều này cho phép nền kinh tế Việt nam phản ứng nhanh hơn trước những biến đổi về chính sách được áp dụng vào cuối thập kỷ 1980 như loại bỏ kiểm soát giá cả, thực hiện khoán trong sản xuất nông nghiệp, củng cố lại nhiều xí nghiệp quốc doanh...Tuy nhiên, sự song song tồn tại của những chính sách theo hướng thị trường và những tổ chức thể chế kế hoạch hoá tập trung(các xí nghiệp quốc doanh) đã tạo khuôn khổ cho sự thiếu nhất quán về chính sách, dẫn đến tính khả thi thấp và chính sách hay thay đổi, kèm theo mất mát lớn về cơ hội. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ vốn là một hoạt động hết sức phức tạp.

Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay có tới gần 4500 quy định riêng biệt dưới nhiều hình thức có liên quan tới việc đầu tư, tiếp cận công nghệ, nhập khẩu máy móc thiết bị, chuyển giao và áp dụng công nghệ. Các đối tác nước ngoài đã phải nhận xét rằng: "Các quy định đó làm cho không thể cạnh tranh được và hậu quả của nó là sự lúng túng, mâu thuẫn và hối lộ". Theo lời của Tham tán Đại Sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam phát biểu trên truyền hình Việt Nam ngày 15/10/1999: "Trong qúa trình theo dõi công tác đầu tư và xúc tiến thương mại tại Việt nam, còn một số hạn chế gây khó khăn cho chúng tôi như: thủ tục còn rườm rà; chưa có hướng dẫn chi tiết và thống nhất về thực hiện thuế VAT đối với hàng hoá nhập khẩu; quy định của Quy chế đấu thầu còn nhiều điều chưa minh bạch, mà điều này sẽ dẫn tới tính cạnh tranh không lành mạnh, không công bằng và tham nhũng; thêm vào đó, trình độ tiếp nhận và quản lý dự án của Việt nam còn kém, công tác di dân, đền bù và giải phóng mặt bằng cho công trình còn quá khó khăn...".

Thật vậy, ngay các chính sách nhập khẩu máy móc thiết bị và khoa học công nghệ trực tiếp của Việt nam đã được xây dựng nhằm khuyến khích và hỗ trợ mua công nghệ mới, song chính luật thuế và hệ thống thu thuế lại đã đặt ra hạn chế cho quá trình mua công nghệ đối với các nhà máy. Thủ tục nhập khẩu khó khăn do sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong các văn bản pháp quy cũng như những quy định chồng chéo về nhập khẩu thậm chí đối với tư liệu sản xuất, dịch vụ công nghệ đã làm hạn chế bớt việc tiếp cận kịp thời để có thể làm chủ các nguồn công nghệ cao của nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho một số ngành công nghiệp hoạt động thuận lợi, gây mất lòng tin của đối tác nước ngoài cũng như giảm khả năng thu hút đầu tư nước ngoài.

Điều rõ ràng là Việt nam đã đặt ra những ưu tiên chung cho đổi mới công nghệ của mình tương tự như ở các nước láng giềng lớn(giống như hầu hết các quốc gia công nghiệp). Tầm nhìn của Việt nam về chương trình công nghệ cao nhấn mạnh tới các phương thức tiếp cận và thu nhận công nghệ cao từ nước ngoài, về cách thức làm thế nào để ứng dụng và thích nghi các công nghệ đó trong các doanh nghiệp và các tổ chức trên phạm vi toàn quốc. Còn việc tự tạo công nghệ cao ở Việt Nam thì rất ít được nhấn mạnh tới, ít nhất trong bước đi ban đầu, mặc dù việc triển khai thử nghiệm đối với công nghệ cao đang được khuyến khích.

Vấn đề đặt ra ở đây có lẽ là cần đến một sự rõ ràng và thống nhất hơn giữa các công cụ chính sách khác nhau và quan trọng nhất là áp dụng nhất quán các công cụ chính sách đó.

Ngoài ra, không thể phủ nhận một điều rằng, việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ sẽ không thể thực hiện nếu thiếu vốn, mà một phần của nguồn vốn đó không từ đâu khác mà chính là từ lợi nhuận thu từ xuất khẩu. Mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Xuất khẩu để tạo vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu nhằm góp phần nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, hỗ trợ và đẩy mạnh cho xuất khẩu. Vì thế, nếu thiết bị toàn bộ được nhập khẩu về không được đánh giá đúng và sử dụng một cách có hiệu quả thì sẽ kìm hãm sự phát triển và gây lãng phí cho nền kinh tế. Do vậy, việc có những chính sách đồng bộ và đúng đắn để giải quyết vấn đề nâng cao hiệu quả xuất khẩu cũng là yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng tích cực tới nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng, sao cho trong một tương lai không xa, Việt nam sẽ không cần phải vay vốn nước ngoài cũng như trông vào viện trợ nước ngoài để nhập khâủ thiết bị và công nghệ trên thị trường quốc tế.

Chính sách xuất khẩu của nước người bán.

Xu thế toàn cầu hoá tạo ra tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc, do đó hình thành sự đan xen lợi ích cũng như đan xen mâu thuẫn giữa các khu vực, các trung tâm kinh tế, các quốc gia, đan xen cạnh tranh với hợp tác theo xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt và hợp tác ngày càng sâu rộng hơn. Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế tất yếu thúc đẩy hầu hết các quốc gia mở rộng thị trường bằng cách giảm bớt, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan; chuyển dịch một cách thông thoáng hàng hoá, vốn đầu tư, tiền tệ, dịch vụ, lao động giữa các quốc gia với quy mô ngày càng lớn; hình thành vô số tổ chức kinh tế tài chính mang tính toàn cầu và khu vực; ký kết hàng vạn Hiệp định song phương và đa phương...Những đặc điểm này không nhiều thì ít ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Việt nam nói riêng.

Thật vậy, nếu Việt Nam có cơ hội và khả năng xuất khẩu nhiều mặt hàng với kim ngạch cao sang các nước bạn, sản phẩm của Việt nam được ưa chuộng trên thị trường thế giới, điều đó cũng đồng nghĩa với việc Việt nam có thể giải quyết được một phần vốn cho nhập khẩu thiết bị và công nghệ tiên tiến để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât nước, tăng cường cho xuất khẩu. Việc xuất khẩu được nhiều hàng nhằm thu ngoại tệ để tạo vốn cho nhập khẩu, tất nhiên, không chỉ phụ thuộc vào chính sách của Việt nam mà còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách xuất nhập khẩu của các nước bạn, phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng trên thị trường thế giới.

Nếu xét đến mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và một trong những bạn hàng lớn nhất là Nhật Bản, có thể thấy rằng triển vọng tăng trưởng quan hệ xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản và Việt nam phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đầu tư nước ngoài, chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt nam và chính sách xuất nhập khẩu của Nhật Bản. Điều này cũng sẽ quyết định lượng đầu tư của Nhật Bản vào Việt nam cũng như tạo điều kiện chuyển giao kỹ thuật, thu ngoại tệ, nhập khẩu máy móc thiết bị nhằm tiến hành nhanh quá trình công nghiệp hoá ở Việt nam. Theo như chính sách Nhật Bản đặt ra đối với thị trường Việt nam, trước hết, Việt nam phải sử dụng các trang thiết bị máy móc kỹ thuật đã có từ trước mà hiện nay vẫn còn được thế giới chấp nhận để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu và thay thế dần nhập khẩu. Nhật Bản sẽ giúp Việt nam tiêu thụ ở mức tối đa các loại hàng xuất khẩu này trên thị trường Nhật. Nhờ vào nguồn ngoại tệ thu được từ hàng xuất khẩu, kết hợp với các nguồn vốn khác, Việt nam cần cố gắng nâng cao sản lượng, mở rộng quy mô sản xuất, tiến hành công nghiệp hoá ngành xuất khẩu bằng máy móc thiết bị kỹ thuật lỗi thời của nước ngoài, nắm vững các thiết bị máy móc và công nghệ đã nhập, cố gắng tự mình khai phá kỹ thuật mới trong nước để có thể tiếp tục tiến hành hiện đại hoá.

Về phía Hoa Kỳ, một quốc gia mạnh nhất thế giới hiện nay cả về tiềm lực kinh tế và quân sự, rõ ràng qua chính sách kinh tế chính trị đối ngoại, Hoa Kỳ đã hạn chế tốc độ phát triển kinh tế của Việt nam và một số nước khác, ngăn chặt sự giao lưu thành tựu khoa học kỹ thuật mới tới những quốc gia này thông qua lệnh cấm vận, mà đã được áp dụng với Việt nam kể từ năm 1964 đối với mọi lĩnh vực Thương mại, Tài chính, Tín dụng Ngân hàng...Chính vì vậy mà đã hạn chế rất nhiều quá trình Việt nam tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới từ các nước phát triển trong một thời gian dài. Tuy nhiên, từ tháng 4/1992, Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận với Việt nam bằng việc cho phép xuất khẩu sang Việt nam hàng hoá đáp ứng nhu cầu thiết yếu, sau đó cho phép các công ty Hoa Kỳ mở văn phòng đại diện ở Việt nam, tiến hành nghiên cứu khả thi và cho phép các hãng của Hoa Kỳ tham gia đấu thầu các công trình tại Việt nam. Kể từ khi Hoa Kỳ tuyên bố không can thiệp vào các tổ chức tài chính quốc tế, thì trước hết là quỹ tiền tệ quốc tế-IMF, Ngân hàng thế giới-WB, Ngân hàng Phát triển Châu Á-ADB đã nối lại quan hệ với Việt nam. Tất cả những sự kiện quan trọng diễn ra sau khi Hoa Kỳ tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam năm 1995 đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam trên con đường đa phương hoá hoạt động chính trị- kinh tế đối ngoại, thúc đẩy thương mại, tiếp cận thành tựu khoa học kỹ thuật mới trên thế giới, đồng thời xúc tiến phát triển hợp tác kinh tế thương mại với Hoa Kỳ. Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ nhằm phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Việt nam có thêm nhiều triển vọng tốt đẹp, do máy móc thiết bị của Hoa Kỳ sản xuất có trình độ công nghệ cao, rất có lợi cho việc phát triển sản xuất trong nước.

Từ những điều nêu trên, cần nhận thức rõ rằng, trong nỗ lực nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ, không chỉ đơn thuần phải giải quyết vấn đề vốn cho nhập khẩu mà vấn đề nhập khẩu cái gì và từ đâu cũng là những vấn đề hết sức quan trọng không phải chỉ do người nhập khẩu tự quyền quyết định. Một khi đã bỏ ra một khoản vốn lớn và nhiều công sức để nhập khẩu công nghệ và máy móc, người nhập khẩu luôn mong muốn được nhập về những công nghệ hiện đại nhất, những máy móc thiết bị tiên tiến nhất phục vụ cho nền sản xuất nước nhà. Song vấn đề nằm ở chỗ liệu họ có thể tìm được nhà xuất khẩu nào đồng ý cung cấp những công nghệ và thiết bị như mong muốn, và có được chuyển giao toàn bộ công nghệ đó về tay mình hay không. Nhật Bản và Hoa Kỳ có thể được coi là hai nước có nền khoa học công nghệ phát triển bậc nhất trên thế giới, tuy nhiên, Chính Phủ hai nước đều không cho phép xuất khẩu những công nghệ và máy móc hiện đại mới tạo ra, đặc biệt là những công nghệ mà mới chỉ một mình họ nắm giữ. Thiết bị máy móc và công nghệ được Nhật Bản và Hoa Kỳ xuất khẩu chẳng qua là những máy móc thiết bị và công nghệ đã sử dụng ở trong nước họ từ trước đó nhiều năm, thậm chí hàng chục năm, và khi được bán ra chúng vẫn có thể coi là hoàn toàn mới đối với nhiều quốc gia...Rõ ràng trong nhiều trường hợp, người nhập khẩu thiết bị toàn bộ vẫn rơi vào tình thế "lực bất tòng tâm", dù có sẵn sàng bỏ nhiều tiền ra để mua công nghệ cũng không được mua, và vì thế thực hiện được mục tiêu của mình đã đặt ra mà phải"xuống thang" theo những yêu cầu từ phía người nhập khẩu.

Tỷ giá hối đoái:

Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới chi phí và kết quả hoạt động xuất nhập khẩu.

Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm đồng nội tệ bị mất giá so với đồng ngoại tệ, hàng hoá nhập khẩu trở nên đắt hơn vì người nhập khẩu phải dùng nhiều đơn vị đồng tiền nội tệ hơn để mua cùng một số lượng hàng nhập khẩu. Điều này, kích thích sự tăng giá cả trong nước, làm hạn chế nhập khẩu hàng hoá hoặc kích thích sự phát triển sản xuất các hàng hoá thay thế nhập khẩu ở trong nước. Tỷ giá hối đoái giảm tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí đồng tiền dân tộc để mua hàng hoá từ nước ngoài các nhà nhập khẩu đã phải tăng chi phí sản xuất kinh doanh của mình. Đây là một nhân tố cơ bản làm giảm hiệu quả kinh doanh của hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí sẽ dẫn tới tăng giá thành sản xuất, do đó sẽ làm giảm cầu trên thị trường nội địa về sản phẩm nhập khẩu. Mặt khác do giá cả tăng lên người tiêu dùng nội địa sẽ sử dụng hàng hoá thay thế khác. Điều này, làm giảm kết quả của hoạt động nhập khẩu dẫn tới giảm hiệu quả của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu.

Như vậy, Nếu tỷ giá giảm sẽ làm giảm hiệu quả nhập khẩu theo hai hướng tăng chi phí và giảm kết quả. Nhưng xét về hiệu quả kinh tế - xã hội khi tỷ giá hối đoái giảm sẽ khuyến khích xuất khẩu, sản xuất, tăng tiềm năng sản xuất trong nước tạo việc làm và cải thiện cán cân thanh toán.

Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các yếu tố khác ảnh hưởng thì sẽ tác động khuyến khích nhập khẩu vì hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với giá cả chung trong nước. Chi phí kinh doanh giảm xuống, làm cho kết quả kinh doanh.

0