16/01/2018, 13:35

Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – Văn mẫu lớp 12

Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – Văn mẫu lớp 12 Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – Bài số 1 Trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông được ...

Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – Văn mẫu lớp 12

Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – Bài số 1

Trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông được chọn in trong sách giáo khoa ngữ văn 12. Vở kịch được tác giả hiện đại hóa từ cốt truyện dân gian, qua hệ thống nhân vật Lưu Quang Vũ đã đặt ra nhiều vấn đề bức thiết của cuộc sống lúc bấy giờ.

Kịch là một loại hình cơ bản của văn học: tự sự, trữ tình, kịch. Kịch vừa thuộc sân khấu lại vừa thuộc văn học, vừa để diễn, vừa để đọc. Và kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Đời sống của kịch được thể hiện ở hai bình diện là văn bản văn học và sàn diễn. Khi phân tích kịch, chúng ta thường phân tích trên bình diện văn học song phải làm nổi bật đặc điểm của kịch là được xây dựng trên những mâu thuẫn, xung đột, những mâu thuẫn mang tính toàn nhân loại. Tất cả các xung đột của kịch được thể hiện bằng cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ, có quy tắc nhất định của yếu tố kịch, chứa đựng nhiều kịch tính, tình huống tạo ra đối với nhân vật.

Qua cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn, Lưu Quang Vũ chuyển tải đến bạn đọc ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Qua các nghịch cảnh, ta thấy được vẻ đẹp của nhân dân lao động trong cuộc chiến thời bình chống lại cái ác, chống lại sự giảo tạo và khát vọng hoàn thiện nhân cách, bảo vệ quyền sống đích thực.

Trương Ba bị chết oan uổng do sự vô tâm, tắc trách của Nam Tào, vì thế được Bắc Đẩu sửa sai, nhưng lại sửa sai một cách vô lí là cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt. Vậy lạ một linh hồn thanh cao, nhân hậu, ngay thẳng lại phải sống nhờ và lệ thuộc vào xác của anh hàng thịt, linh hồn Trương Ba không sai khiến được mà còn bị xác thịt điều khiển, dẫn tới linh hồn bị nhiễm độc bởi tầm thường. Chính vì ý thức được điều này, khiến Trương Ba dằn vặt, đau khổ và đưa ra quyết định sống độc lập.

Trước những lí lẽ của xác thịt, hồn Trương Ba nổi giận, khinh bỉ xác thịt nhưng phần nào cũng ngậm ngùi vì hắn có lý và Trương Ba trở lại là xác thịt trong tuyệt vọng. Cuộc tranh cãi với xác thịt là bi kịch thứ nhất, vì xác thịt đã thắng. Còn bi kịch thứ hai là xung đột giữa Trương Ba và gia đình. Ông dằn vặt khi hiểu những gì mình dã, đang và sẽ gây ra những điều tệ hại cho dù ông không hề muốn. Tất cả những người thân đều xa rời ông vì hồn ông dần bị mờ khuất, chỉ còn lại thân xác anh hàng thịt thô lỗ hiện hữu trong nhà gây biết bao phiền toái, chướng tai gai mắt. Màn kết của vở kịch sau khi đẩy những xung đột lên tới đỉnh điểm, hóa giải những nghịch cảnh, Trương Ba chả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn tồn tại vĩnh viễn bên những người thân yêu của mình. Một cuộc sống không đáng sống vì cái thanh cao phải dung hòa với cái thấp hèn thì chẳng phải sẽ trở thành bi kịch sao? Thể xác và linh hồn có mối quan hệ hữu cơ với nhau không tách rời. Xác thịt có nhu cầu mang tính bản năng, còn linh hoonf mang tính chất thanh cao, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách. Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn nhấn mạnh rằng khi con người ta phải sống trong cái tầm thường thì tất yếu sẽ bị nhiễm độc, cái tốt đẹp sẽ bị lấn át. Những xung đột từ bên trong con người thông qua cuộc đối thoại có tính giả tưởng giữa linh hồn và thể xác nhằm hướng tới vấn đề mang tính triết học.

Tất cả bi kịch xảy ra từ những tồn tại đầy nghịch lý, trái với lẽ tự nhiên khiến cái dung tục có cơ hội ngự trị, lấn át và đồng lõa những gì vốn thanh cao, tốt đẹp. Qua đó cổ vũ cho cuộc đấu tranh bảo vệ cho những phẩm tính cao quý của con người nhằm hướng tới khát vọng trong sạch, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn để hoàn thiện nhân cách, để xứng đáng chức vị làm người trên trái đất.

Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – Bài số 2

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở kịch rất nổi tiếng, đã từng được nhiều lần biểu diễn trên sân khấu với ý nghĩa truyền tải rất sâu sắc. Đó là một cuộc đại mâu thuẫn giữa linh hồn và thể xác với những quan niệm sống trái ngược nhau. Linh hồn trong sáng nhưng thể xác đui mù, đắm chìm trong những đam mê tầm thường, đen tối. Cuộc đấu tranh ngang sức ngang tài là một bài học giáo dục mang nhiều triết lý sâu xa cho người xem những khoảng lặng ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình.

Tác giả của vở kịch là Lưu Quang Vũ – một nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông đã trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỷ XX. Trước đó, ông từng làm thơ, sáng tác truyện ngắn và vẽ tranh. Thơ Lưu Quang Vũ không sắc sảo và dữ dội như kịch nhưng giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trong và ngoài nước. Nhân vật chính trong đó là Trương Ba, ông đánh cờ giỏi nên bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lý tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ… mà bản thân trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo. Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.

Đến giây phút này, Hồn Trương Ba không còn khát khao được tồn tại, được sống nữa. Bởi sống mà không được làm chính mình cũng chẳng có ích chi. Thậm chí còn gây thêm rắc rối cho mọi người xung quanh. Ông lại tìm đến Đế Thích để mong được giải quyết. Ông cầu cứu “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Toàn vẹn nghĩa là thể xác và tâm hồn phải hòa nhập vào nhau, thống nhất với nhau. Tâm hồn nghĩ sao thì thể xác sống như vậy. Chứ không phải như bây giờ. Linh hồn trong sáng nhưng lại không thể nào chế ngự lại được những ham muốn của thể xác. Hồn Trương Ba thà là được chết nhưng chết để được làm chính mình còn hơn là sống như thế này. Cái Tí chết, nhưng suy cho cùng, Hồn Trương Ba cũng không thể nhập vào cái Tí được. Rồi mọi chuyện sẽ lại càng rắc rối hơn. Dù cái Tí cũng tốt, cũng được mọi người yêu quý. Nhưng vẫn là bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Trương Ba vẫn không được sống toàn vẹn.

Chỉ khi con người ta được sống tự nhiên, sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có thì mới có ý nghĩa, mới thực sự là cuộc sống. Vì vậy, dù khi không còn tồn tại trong xác hàng thịt nữa, nhưng những đức tính tốt đẹp của Trương Ba vẫn còn được nguyên vẹn, được mọi người thương nhớ. Ông không hiện hữu như một con người bình thường nữa nhưng ông ở “ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trng cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giãy cỏ… Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”. Chỉ cần mọi người không quên thì Trương Ba vẫn luôn tồn tại, luôn hiện hữu. Và cũng chỉ có như vậy, ông mới giữ gìn được nguyên vẹn sự trong sáng của mình. Sau những rắc rối quanh co, Lưu Quang Vũ đã giàn xếp cho mọi chuyện trở lại bình thường. Con người ta có thể chấp nhận nỗi đau mất mát nhưng sẽ khó mà thay đổi được những điều đã ăn sâu trong tiềm thức mình. Thế nên, Trương Ba thà là chết hẳn còn hơn phải sống chập chờn như lúc còn trú ngụ trong xác hàng thịt.

Cuộc đời tốt đẹp của Trương Ba giống như những mầm non mà cái Gái đang nâng niu. “Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…”

Như vậy, vở kịch đặc sắc của Lưu Quang Vũ đã mang đến một bài học đắt giá cho người xem. Được sống làm người thật quý giá, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – Bài số 3

Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu phát triển mạnh mẽ ở nước ta từ thế kỉ XX. Đã có rất nhiều nhà soạn kịch và nhiều vở kịch thành công được ra đời vào thời kì này. Và cái tên Lưu Quang Vũ đã không còn xa lạ đối với ai yêu kịch,  vở kịch "hồn Trương Ba da Hàng Thịt" lại càng không thể là một cái tên mới.

Là một nhà soạn kịch, nhà thơ hiện đại Việt Nam, câc tác phẩm của ông  đã để lại dấu ấn đáng kể trong lòng khán giả. Gần 50 vở kịch của ông luôn được khán giả ủng hộ bởi tính chân thực và nhân văn của nó. Tác phẩm Hồn Trương Ba da Hàng Thịt được lấy từ côts truyện dân gian. Nhưng không vì thể mà nó trở nên nhàm chán. Cái tài của tác giả đó chính là ông đã sangs tạo ra tình huống trớ trêu, nỗi đau khổ dày vò Trương Ba khi phải sống trong xác anh hàng thịt. Và cuối cùng đi đến một cáí kết đầy tính nhân văn: Trương Ba được trở về với con người thật của mình.

Tác phẩm được ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới, nhằm giải phong sứ lao động, phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong đó có lực lương cầm bút. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khai thác mạnh,. Những vấn đề nóng bỏng, chông tiêu cực đã trở thành cảm hứng cho nhiều nhà văn. Và Lưu Quang Vũ cũng không ngoại lệ. Với mục đích phê phán những tiêu cực lúc bấy giờ, ông đã viết vở kịch này. Những tiêu cực ấy được thể hiện rất rõ qua những xung đột trong đoạn trích. Theo ông, chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ muốn hưởng thụ trở thành phàm phu thô thiển. Ai cũng biết tâm hồn là quí, đời sôngs tinh thần là trọng nhưng không quan tâm đến đời sống vật chất , không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn thì chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm. Tình trạng con người phải sống giả, không dám được như bản thân đó là nguy cơ đẩy con người đến chỗ tha hóa do danh và lợi. Nếu sống vay mượn chắp vá, không hài hòa giữa tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của con người thực sự có hạnh phúc có giá trị khi được sống là chính mình. Đó là tất cả nhưng gì mà tác giả muốn truyền đạt đến người đọc, người nghe, người xem.

Ngay từ nhan đề, ta đã có thể thấy được sự khập khễnh, mâu thuẫn. "Hồn" là phần tinh thần, là nội dung bên trong, là phần lí trí , tình cảm con người. Ở đây hồn Trương Ba là một người có lối sống thannh cao, nhân hậu, luôn đấu tranh với hoàn cảnh để được trở về với cuộc sống nguyên vẹn trong sạch thẳng thắn. "Xác" là phần vật chất, là hình thức bên ngoài. Trong vở kịch, xác anh Đồ tể mà hồn Trương Ba buộc phải trú ngụ. Từ nhan đề, tác giả đã gợi ra được sự vênh lệch, khấp khễnh,giữa bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, một mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, giữa vật chất-tinh thần, lí trí-bản năng, con người -hoàn cảnh, thamh cao-phàm tục. 

Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, hồn Trương Ba đã bày tỏ sự chán ghét với cái xác mình nương nhờ, khinh bỉ hoàn cảnh mình đang sinh sống, khát khao sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Nhưng đối lập với hồn, xác bị ảnh hươngr bởi những dung tục tầm thường, đại diện cho kiểu người vừa chú trọng vật chất, bản năng, vừa là kiểu nhân vật đại diện cho nhiều người trong xã hội, quan tâm đến lợi ích của nhiều người đòi hỏi sự hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Bi kịch của hồn là nhận ra một con người cần phải hài hòa cả về vật chất, tinh thần, nhận ra mình đã bị tha hóa. Tiếp theo trong các cuộc đối thoại với người thân, hồn bị người thân xa cách, nghi ngờ. Triết lý của vở kịch được thể hiện rõ qua cuộc đối thoại của Trương Ba với Đế Thích. Trương Ba bày tỏ khao khát được sống với chính mình, không nhờ vả, không giả dối, ông quyết định tìm đến cái chết chứ không chấp nhận nhập vào xác cu Tị. Kết của vở kịch có ý nghĩa triết lý sâu sắc, đó là sự gieo mầm cho những gì nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, là sự sống trong tâm hồn mỗi người. Trương Ba chính là tấm gương về lòng nhân hậu, thanh cao.

Vén màn kết thúc vở kịch, Lưu Quang Vũ đã để lại nhiều dư âm trong lòng khán giả, với triết lý sâu sắc, vở kịch đã trở thành một sáng tác nổi tiếng của ông và còn có giá trị mãi cho đến tận bây giờ.

Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – Bài số 4

Lưu Quang Vũ ( 1948-1988 ) là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam . Tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông là vở kịch Hồn Trương Ba , da hàng thịt . Đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba , da hàng thịt ( SGK Ngữ văn 12 ) là văn bản đặc sắc , qua việc khắc hoạ mâu thuẫn giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt , với người thân đã phản ánh bi kịch và khát vọng hoàn thiện nhân cách của nhân vật hồn Trương Ba .

Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác năm 1981, đến năm 1984 mới ra mắt công chúng. Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước . Vở kịch được sáng tác trong không khí đổi mới tư duy, ý thức dân chủ trong đời sống, phong trào đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội. Vở kịch gồm 7 cảnh, được tác giả sáng tác dựa trên một cốt truyện dân gian.

Đoạn trích Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt nằm ở cảnh 7 của vở kịch , qua việc xây dựng xung đột giữa tâm hồn thanh cao của Trương Ba với thể xác phàm tục của anh hàng thịt đã khắc hoạ bi kịch tha hoá và cuộc đấu tranh gay gắt bảo vệ , hoàn thiện nhân cách của con người . Từ đó tác giả đã phê phán một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội và gửi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc về yêu cầu thống nhất giữa thể xác và tâm hồn.

Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:”- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! . Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải . Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.

Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận: Cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”,… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân : tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”.

Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánhmất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờanh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết! Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.

Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

Đoạn trích vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt, qua việc khắc hoạ bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba đã thể hiện một ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người. Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ đồng thời đã khẳng định khao khát hoàn thiện nhân cách, đấu tranh chống lại sự tha hoá trong mỗi con người .Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.

Vũ Hường tổng hợp

0