25/05/2017, 01:10

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Văn mẫu lớp 9

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Văn mẫu lớp 9 5 (100%) 1 vote Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi tỉnh Nghệ An Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt ...

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Văn mẫu lớp 9 5 (100%) 1 vote Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi tỉnh Nghệ An Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người ...

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi tỉnh Nghệ An

Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ,với nhân vật chính là ông Hai ,một lão nông hiền lành ,yêu làng ,yêu nước và gắn bó với kháng chiến .

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng.Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật.Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông tin ra,đang phấn chấn,náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng,ông Hai quay phắt lại,lắp bắp hỏi,hy vọng được nghe những tin tốt lành,nào ngờ biết tin dữ:“Cả làng Việt gian theo Tây ”.Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được,một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.Ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật.Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về.Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ,đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”,nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.Ông căm thù những kẻ theo Tây,phản bội làng,ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ”.Niềm tin,nỗi ngờ giằng xé trong ông.Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ”.Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm,người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,“chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”,lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý,đang bàn tán đến cái chuyện làng mình.Nỗi ám ảnh,day dứt,nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông.Ông đau đớn,tủi hổ như chính ông là người có lỗi…

Tình thế của ông càng trở nên bế tắc,tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian.Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến,bỏ Cụ Hồ ”,là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu,niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt.Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát:“Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”.Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương.Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn… Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy,ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ.Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã biết,vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”.Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng.Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ …

May thay,tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính .Ông Hai sung sướng như được sống lại.Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ”.Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người.Đến đâu cũng chỉ mấy câu“Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính.Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà .Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả .” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”.Ông khoe nhà mình bị đốt sạch,đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc,thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc.Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến.Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng,yêu nước,tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược .

Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại .

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 2

Kim lân là một nhà văn gắn bó, am hiểu sâu sắc về cuộc sống của nông thôn. Các sáng tác của ông hầu như chỉ viết về cảnh ngộ người nông dân và sinh hoạt làng quê. Truyện ngắn “Làng”, một tác phẩn nổi tiếng của ông, được ông viết trong thời kì chống thực dân Pháp. Câu truyện đã phần nào thể hiện một cách chân thực và sâu sắc vẻ đẹp, tâm hồn, của người nông dân qua nhân vật ông Hai. Thông qua câu truyện ta thấy tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết của người nông dân Việt Nam dù là trong mọi hoàn cảnh, chiến tranh hay thời bình thì họ vẫn 1 lòng yêu quê hương đất nước. 1 tình cảm cao đẹp và đáng quý.

Thật vậy, ông Hai yêu làng Chợ Dầu của mình bằng một tình cảm đặc biệt. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, nhớ những ngày làm việc với anh em để rồi “trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên” và “Chao ôi! Ông nhớ làng, nhớ cái làng quá.”. Ông cũng không quên theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm làng Chợ Dầu. Tình yêu làng thiết tha, sâu nặng ấy càng được thể hiện sâu sắc khi nhà văn đặt nhân vật vào tình huống bất ngờ, độc đáo. Từ phòng thông tin ra, ông lão đang phấn chấn vì nghe ngóng được nhiều tin vui từ kháng chiến thì lại gặp những người tản cư. Ông quay phắt lại lắp bắp hỏi khi nghe nhắc đến tên làng, mong nhận được những tin tốt lành, nào ngờ lại là tin dữ: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây..”. Lúc này “cổ ông lão nghẹn ắng cả lại, da mặt tê rân rân” vì sự ngạc nhiên đến nỗi bắt ngờ làm ông đau xót, “ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ” nhằm hi vọng đó không phải là sự thật. Nhưng trước câu nói khẳng định, ông xấu hổ đứng lảng bỏ về, cúi mặt xuống mà đi. Ông xấu hổ vì trước đây hay đi khoe về làng cho mọi người mà bây giờ làng lại là Việt gian, bị người ta chửi bới, chỉ nghĩ đến đó thôi cũng đủ làm ông xấu hổ không dám nhìn mặt ai nữa.

Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con mà nước mắt ông lão cứ giàn ra “ chúng cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? ******** bằng ấy tuổi đầu…”. Ông thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay mà rít lên nhục nhã: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Tuy thế nhưng ông vẫn còn niềm tin vào người làng mình, ông kiểm điểm từng người một, họ đều có tinh thần cả, chẳng ai “ lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót khi nghĩ đên việc “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Mấy ngày sau, ông chẳng dám đi đâu, ông cứ thấy đám đông túm lại là chột dạ, lo lắng người ta nói xấu làng Chợ Dầu. Nỗi ám ảnh day dứt trong ông biến thành nỗi sợ hãi.

Tình cảnh của ông càng éo le hơn khi bà chủ nhà có ý muốn đuổi gia đình ông đi. Ông chợt nghĩ về làng nhưng lại phản đối ngay “ về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, ông không cam chịu “ quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Qua câu nói trên, ta thấy tình yêu làng của ông Hai đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu làng có bị lung lay nhưng tình yêu ông dành cho kháng chiến, cho Cụ Hồ không hề thay đổi. Ông lựa chọn một cách dứt khoát và đau đớn: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Dù xác định thù làng nhưng ông vãn không thẻ dứt bỏ tình cảm của mình với nó. Thê nên ông mới đau đớn, xót xa. Ông đành tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với thằng út. Ông hỏi những điều mà ông biết trước câu trả lời: “Thế nhà con ở đâu?”, “Thê con ủng hộ ai?”… Câu trả lời của thằng bé giản dị mà thiêng liêng: “nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”…ông muốn con cùng khắc cốt ghi tâm. “Ông lão xúc động, nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên hai má.”, ông mong mình được minh oan. Thê mới thấy, dẫu có thế nào thì ông vẫn trung thành với kháng chiến, với Cụ Hồ.

Tình huống câu chuyện thật trớ trêu làm sao?!. Nhưng may thay, tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Ông Hai sung sướng như người được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề rồi tất tả chạy theo người báo tin mà quên dặn trẻ coi nhà. Khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, ông chia quà cho từng đứa xong thì vội vã đi khe với mọi người về tin làng không theo giặc. Đến đâu cũng câu nói “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi mới lên trên này cải chính… cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn la sai sự mục đích cả”, vừa nói “ông lão cứ múa tay lên mà khoe”. Ở đây nói chính ra phải dùng từ “mục kích”(nhìn thấy rõ ràng, tận mắt), vì ông Hai cũng được học một khóa bình dân học vụ nhưng ông cứ đọc bập bõm, câu được câu chăng, ngay cả khi đến phòng thông tin vẫn phải nghe lén, nên ông nói sai cũng là chuyện thường. Tác giả đã đặt nhân vật trong ngôn ngữ khá tự nhiên, bộc lộ thêm tính chất người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông Hai khoe nhà mình bị đốt là minh chứng rằng làng không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp nhưng ông lão vẫn sung sướng, không hề tiếc nuối. Qua đó ta hiểu thêm, đối với ông vật chất chẳng có giá trị gì cả, nhưng danh dự, tinh thần yêu nước là trên cả. Đó là một niềm vui kì lạ nhưng thể hiện cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hi sinh của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chống giặc ngoại xâm.

Với cách chọn tình huống độc đáo, bằng lối văn miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ nhân vật –lúc đối thoại, khi độc thoại, và độc thoại nội tâm – đa dạng, nhà văn đã thể hiện được chiều sâu tâm trạng của nhân vật, góp một phần không nhỏ tới thành công của tác phẩm.

Qua nhân vật ông Hai, ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kì chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là tình yêu làng hòa quyện với tình yêu nước, yêu kháng chiến. Tác phẩm “Làng” giúp ta hiểu hơn về những con người này, từ đó yêu mến họ, trân trọng, biết ơn họ – thành phần hậu phương vững chắc, cũng như biết tại sao cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta thành công .

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 3

Kim Lân (1920-2007) là cây bút chuyên văn về truyện ngắn, vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống của nông thôn nên hầu như các tác phẩm của ông chủ yếu viết về cảnh sinh hoạt của làng quê Việt Nam và cảnh ngộ của người nông dân. “Làng” là một truyện ngắn đặc sắc nhất của nhà văn được viết vào thời kỳ đầu của  cuộc kháng chiến chống Pháp, truyện thể hiện một cách chân thực, cảm động và sâu sắc tình yêu làng thống nhất với tình yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân qua hình tượng nhân vật ông Hai – nhân vật chính.

Tình yêu làng yêu nước là một bản chất có tính truyền thống của nhân vật ông Hai. Đây là tình cảm nổi bật xuyên suốt toàn truyện. Làng của ông Hai là làng chợ Dầu, vì kháng chiến ông cùng gia đình dời làng di tản cư lên vùng Cao Thượng- Nhã Yên, nay thuộc Tân Yên- Bắc Giang. Ở nơi đây ông khoe về làng ” Làng toàn lát đá xanh, chòi phát thanh cao quả ngọn tre, nhà ngói mọc san sát…. có nghĩa ông tự hào làng ông giàu có về vật chất, bởi điều này vô cùng quant rọng với đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân lúc bấy giờ. Nhưng sau cách mạng, đi theo kháng chiến ông Hai đã có những chuyển biến mới về tình cảm, được cách mạng giải phóng nên ông tự hào về phong trào cách mạng quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông, Phải xa làng ông nhớ quá cái không khí: ” đào đường, đắp ụ, xẻ hào khuân đá, rồi ông lo ” cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa, những đường hầm bí mật đã xong chưa?…, những lúc như này ông đã không kìm nổi cảm xúc nhớ làng:

“Cha ôi! ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”, đó là tình yêu làng quê tự nhiên hồn hậu mà tha thiết của ông Hai, không chỉ vậy ông dồn hết tình yêu làng, kháng chiến vào việc theo dõi  tin tức, khi nghe được những tin như: ” Một em nhỏ bơi ra hồ Hoàn Kiếm cắm lá quốc kỳ, một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn, thế là ông bình luận: ” cứ chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tý, cả súng ống cũng vậy hôm nnay dặm khẩu ngày mai dặm khẩu tích tiểu thành đại làm gì mà thằng Tây không bước sớm” Nghe những tin như vậy ông vui vô cùng, vui sướng ông như đang được trực tiếp tham gia kháng chiến” ruột gan ông lão cứ múa cả lên vui quá“, đó là tình yêu nước sâu sắc ở nhân vật ông Hai, một con người đã gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân  tộc.

Điều đáng quý hơn đó là tình yêu làng gắn bó tha thiết với tình yêu nước của ông Hai được bộc lộ sâu sắc hơn, khi nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống đầy thử thách và khó khăn – khi ông Hai nghe tin làng chợ Dầu của mình theo giặc, tin ông nghe từ những người đàn bà tản cư dưới xuôi mới lên, cái tin dữ ấy đã làm nảy sinh ở nhân vật ông Hai, một diễn biến tâm lý vô cùng phức tạp.

Khi mới nghe tin ông Hai bàng hoàng sửng sốt ” cổ nghẹn ắng, da mặt tê dân dân. Ông lão nặng người đi tưởng đến không thở được” vì quá bất ngờ nên ông chưa tin bằng câu hỏi lại kỹ càng ” liệu có thật không hả bác? hay chỉ lại là…” .Những lời kể quá rạnh rọt của những người phụ nữ kia: ” Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ” khiến ông không thể không tin, ông xấu hổ lảng chuyện ra về: ” Hà nắng gớm về nào”, đau đớn ông cúi gầm mặt xuống mà đi.

Về đến nhà tâm trí ông Hai luôn bị các tin giữ xâm chiến, nó trở thành lỗi ám ảnh day dứt trong lòng ông, ông luôn mặc cảm mình là kẻ phản bội. Chán nản ông nằm vật ra giường nhìn các con, tủi thân nước mắt ông cứ dàn ra: ” Chúng nó cũng là trẻ con của làng việt gian đấy ư? chúng nó cũng bị người ta dẻ dúng hắt hủi đấy ư? khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu?”. Càng đau đớn dằn vặt và thương con bấy nhiêu ông càng căm giận những người làng chợ Dầu phản bội bấy nhiêu, ông lão nắm chặt hai bàn tay rồi rít lên ” chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này? suốt mấy ngày sau đó – ba bốn ngày ông không dám ra khỏi nhà vì đi đâu cũng sợ người ta nhắc đến ” cái chuyện ấy”, ông nghe ngóng binh tình bên ngoài ” Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ”. Ông như người có tật giật mình, không khí lặng lề bao trùm cả nhà, trẻ con không đứa nào dám đòi quà, khi vợ ông Hai vừa cất giọng ” này thầy nó ạ! tôi thấy người ta đồn…” đã bị ông cắt ngang bằng giọng gắt lên ” biết rồi”. Đây là tâm lý giận cá chém thớt.

Đặc biệt tình yêu nước và yêu làng của ông Hai lại tiếp tục đặt vào tình huống căng thẳng thử thách hơn khi nghe mụ chủ nhà bảo là có tin đuổi những người làng chợ Dầu ra khỏi nơi tản cư, lúc đó ông rơi vào tâm trạng bế tắc tuyệt vọng và lo lắng cho tương lai ” biết đem nhau đi đâu bây giờ”, biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ? thật là tuyệt đường sinh sống”. Trong lúc bế tắc tuyệt vọng ấy, ở ông Hai đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, ông chớm nghĩ ” hay là quay về làng”, nhưng lập tức ông lão phản đối ngay:” Về làm gì cái  làng ấy nữa, chúng nó theo Tây hết cả rồi, về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ” nếu như trước đây tình yêu làng hòa quyện thống nhất với nhau thì bây giờ ông Hai buộc phải lựa chọn yêu làng hay yêu nước. Đây là điều không hề đơn giản, bởi với ông làng chợ Dầu đã trở thành một phần máu thịt không dễ gì từ bỏ cách mạng lại là cứu cánh giúp gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ, qua những ngày đấu tranh tư tưởng dằn vặt đau đớn cuối cùng ông Hai quyết định ” Làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù” nói cứng như vậy nhưng trong lòng ông đau như cắt.

Tình cảm với kháng chiến với cụ Hồ được bộc lộ cảm động nhất khhi ông Hai trút lỗi lòng tâm sự với đứa con út ngây thơ, thực chất như một lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự như mình vào những lúc khó khăn như thế này. Qua những câu hỏi của bố đứa con ông ông bí tí mà đã biết giơ tay thề: ” Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm” nữa là ông bố của nó. Lúc này ông mong: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên cổ xét soi cho bố con ông” Đến đây ta thấy được tình yêu nước sâu lặng đối với làng chợ Dầu mang tính truyền thống chứ không phải là làng theo giặc,. Bằng tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với cụ Hồ đã được ông Hai bộc lộ rất mộc mạc chân thành, tình cảm đó gần gữi sâu nặng vô cùng thiêng liêng: ” có bao giờ giám đơn sai, chết thì chết, có bao giờ giám đơn sai, đặt tình yêu nước yêu kháng chiến lên trên tình yêu làng ở nhân vật ông Hai là tác giả Kim Lân đã thể hiện được nét chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Với tấm lòng, tình cảm cao đẹp ấy, ông Hai đã được đền bù xứng đáng khi cái tin đồn kia được cải chính, gáng nặng tâm lý được trút bỏ. Lúc này ông sống trong tột cùng vui sướng, ông như nắng hạn gặp mưa, ông tiếp tục tự hào về làng Dầu: ” ông sắn quần lên bẹn, múa tay lên mà khoe” đặc biệt cái cách ông khoe ” Tây nó đốt nhà tôi rồi” là biểu hiện cụ thể của ý chí: thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước không chịu làm nô lệ” của một người nông dân lao động bình thường, thật đáng khâm phục biết bao.

Nhân vật ông hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lý tính cách  và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút chân thực sinh động của Kim Lân, ông đã đặt nhân vật ông Hai vào tình huống thử thách bên trong( nghe tin xấu về làng) để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng của mình, đặc biệt nghệ thuật miêu tả rất cụ thể gợi cảm qua các diễn biến nội tâm bằng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, và độc thoại nội tâm, ngôn ngữ của ông Hai vừa có nét chung của người nông dân ” dặm khẩu”. ” bỏ mẹ”, ” cơ chừng” ” giữ chịt nấy” lại mang đậm tính cách nhân vật đây chính là thành công của Kim Lân.

Như vậy với tình huống truyện đơn giản tự nhiên mà hợp lý, xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ cử chỉ, hành động để thể hiện nội tâm, nhân vật ông Hai trong truyện ngắn” làng” của Kim Lân đã làm cho người đọc thấm thía về tình yêu làng yêu nước mộc mạc chân thành mà vô cùng sâu nặng cao quý, trong những người nông dân bình thường, sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới của nhận thức, tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp chú trọng và làm nổi bật. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý này, và qua truyện ngắn người đọc chúng ta được củng cố thêm tình yêu quê hương đất nước.

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 4

Có người từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người.”- dù con người và quê hương có bị cách trở bởi địa lí nhưng những tình cảm thì không gì ngăn cách. Đó là chân lí của cuộc sống và cũng là chân lí của văn chương. Cho đến khi đọc truyện ngắn “Làng” của nhà văn kim Lân- một nhà văn am hiểu, gắn bó với cuộc sống nông thôn, dường như ta lại càng cảm nhận sâu sắc hơn chân lí ấy. Qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhà văn đã gửi gắm vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, tư tưởng mới mẻ: tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu đất nước.

Nhân vật ông Hai là điển hình cho người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Đối với ông, tình yêu làng quê gắn với cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tất cả buồn vui của ông đều bắt nguồn tù chuyện làng, tin cách mạng. Thói hay khoe làng cho thấy tình yêu và niềm tự hào của lão nông ấy đối với ngôi làng chợ Dầu: ông khoe làng có chòi phát thnah cao  bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, khoe đường làng lát toàn đá xanh…Sau cách mạng tháng Tám, ông lại khoe về tinh thần kháng chiến ở làng với niêm kiêu hãnh vô bờ. Yêu làng như thế nên khi phải xa làng, đến nơi tản cư, ông lão nhớ làng lắm, nhớ những ngày đào hầm, đắp ụ, nhớ những khóa bình dân học vụ…Phải có tình cảm gắn bó máu thịt với mảnh đất chôn rau cắt rốn, ông Hai mới mang trong mình nỗi nhớ da diêt đến vậy.

Nhưng trớ trêu thay, ngôi làng mà  ông lão hết sức tự hào, đi đâu cũng khoe kia lại  bị đồn là làng Việt gian. Mới đầu khi nghe giặc vào làng, ông lão giật mình, lắp bắp hỏi: “N..nó vào làng chợ Dầu khủng bố hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thắng?” Câu nói ấy cho thấy  ý nghĩ về làng quê luôn thường trực trong tâm trí ông nhưng rồi “ cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Cảm giác bàng hoàn, sững sờ dến tê dại cả người, và cả nỗi đau quặn thắt khiến ông “lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Có thể nói nhà  văn Kim Lân đã miêu tả tâm trạng của nhân vật thật tinh tế. Càng yêu làng bao nhiêu giờ đây, ông Hai càng đau xot, tủi hổ bấy nhiêu. Ông cứ “cúi gằm mặt xuống”. Phải chăng nỗi đau dớn nhất lúc này chính là ông khong thể nhận mình là người con của làng chợ Dầu được?   

Rời khỏi quán nước, về đến nhà, bộ dạng của ông lão thật tộ nghiệp, ông dã tự rít lên vì không biết trút nỗi lòng vào đâu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ta có thể thấy những suy nghĩ, tâm trạng của ông chủ yếu được thẻ hiện qua hành động, lời nói và yếu tố miêu tả bên ngoài, có yếu tố đọc thoại nội tâm nhưng không nhiều, điều đó hoàn toàn phù hợp với ông Hai- một lão nông chân quê. 

Nỗi đau đớn dường như đã chuyển thành nỗi sợ hãi. Tâm trí ông như bị ám ảnh khiến ông cả ngày chỉ dám quanh quẩn trong nhà, ông trở nên nhạy cảm với những gì mà ông cho rằng có liên quan đên cái tin dữ kia: “cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông…là ông lủi ra một góc nhà nín thít”. Lúc bị mụ chủ nhà đuổi, tâm can ông giằng xé với ý nghĩ: “hay là quay về làng”. Nước mất thì nhà tan, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…”. nhận thức được điều đó nen dù rất đau đớn, xong ông vẫn đưa ra quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Đây quả là một quyết định táo bạo, tiến bộ của người nông dân. Tình cảm của họ đã vượt qua lũy tre làng để đến với dân tộc, với cách mạng.

Những ngày sau đó, không có hay nói chính xác hơn là không  biết phải tâm sự vơi ai, ông đành trò chuyện với đứa con nhỏ để vơi đi nỗi khổ tâm. Nhưng điều đặc biệt ở đay là cuộc nói chuyện nhắc tới làng chơ Dầu- ngôi  làng mà chẳng phải ông đã “thù” đó sao. Có lẽ tâm trí ông vẫn ôm ấp dáng hình một ngôi làng tươi đẹp mà con tim từng hết mực yêu quý? Lời con nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với làng, với đất nước?

Đến khi tin làn chợ Dầu Việt gian theo giặc được cải chính, ông Hai phấn khởi vô cùng, ông lại đi khoe khắp nơi về làng, về ngôi nhà bị cháy của mình. Chi tiết tưởng như vô lí nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt. Đó là chứng cứ hùng hồn nhất cho việc làng ông đã chiến đấu  kiên cường. Ông Hai đã   quên đi vật chất riêng để hòa vào niềm vui chung của dân tộc. Giờ đây niềm tin của ông vào ngôi làng kháng chiến càng được khẳng định mạnh mẽ, vững vàng hơn. Và tình yêu làng quê- tình cảm truyền thống của người nông dân Việt Nam đã vang lên trong câu hát: 

“ Làng ta phong cảnh hửu tình

Dân cư giang khúc như hình con long”.

Thế nhưng chỉ ở người nông dân sau cách mạng tháng tám, tình yêu làng mới hòa quện sâu sắ, thống nhất với tình yêu đát nước, niềm tin lãnh tụ và ủng hộ cách mạng.

Nhân vật ông Hai để lại ấn tượng trong lòng người đọc bằng nghẹ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào tình huống: ở nơi tản cư, ông Hai nghe tin làng mình theo giặc. Chính tình huống ấy bộc lộ rõ nội tâm của ông. Tình yêu làng bông trở nên mâu thuẫn với tình yêu đất nước,  một tình cảm vốn là cội nguồn, một tình cảm tuy mới hình thành nhưng lại sâu nặng khiến cho ông không thể dứt bỏ. Cũng từ đây những suy nghĩ đa chiều được miêu tả rõ, góp phần thể hiện chủ đề truyện.

Truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công tình yêu làng, yêu nước  mộ cmạc chân thành nhưng sâu nặng của những người mông dân. Tác phẩm cũng nêu lên chuyển biến tích cực  trong nhận thức của quần chúng cách mạng, thể hiện sự sáng tạo của nhà văn tài ba.

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 5

Kim Lân là cây bút xuất sắc về truyện ngắn của nền văn  học Việt Nam.Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện “ Làng” là tác phẩm thành công để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.Tác phẩm đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai – một lão nông trong hoàn cảnh kháng chiến gắn tình yêu làng với yêu quê hương đất nước.

Chuyện khai thác một tình cảm bao trùm trong kháng chiến chống Pháp.Những nét tình cảm và tính cách riêng tư của ông Hai trong truyện cũng là tình cảm chung của người nông dân trong kháng chiến.

Ông Hai vốn là một lão nông cần cù chất phác và ít chữ.Ông cũng như bao con người Việt Nam khác,cũng có một quê hương để yêu thương gắn bó.Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào kiêu hãnh của ông Hai.Đó là những tình cảm không thể nén nổi đã được bộc lộ ra một cách chân tình gần gũi và cũng là điều dễ hiểu thông thường của con người Việt Nam.Một đặc điểm nổi bật ở người nông dân chất phác này là luôn khoe về cái làng chợ Dầu của mình.Cái tính khoe làng của ông Hai gần như trở thành bản chất,có khác chăng là ở những thời điểm khác nhau.

Trước cách mạng,đi đâu ông Hai cũng khoe làng trù phú và nhà ngói san sát,đường trong làng lát toàn đá xanh trời mưa trời gió tha hồ đi,khắp đầu làng cuối xóm bùn không dính đến gót chân,ngày mùa phơi rơm phơi thóc thì tốt thượng hạng,lại còn cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều loa gọi cả  làng nghe thấy.Đặc biệt ông Hai rất tự hào hãnh diện về cái sinh phần của tên viên tổng đốc: chết chết tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi có lắm lắm là của vườn hoa cây cảnh nom như động ấy.Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà Đông.

Nhưng từ sau cách mạng tháng Tám khi có ánh sáng của Đảng soi rọi tâm hồn ông Hai đã có cuộc cách mạng về nhận thức: ông thấy rằng phải căm thù cái sinh phần của tên viên tổng đốc vì nó mà làng đã phải vất vả phục dịch việc xây dựng cái dinh cơ ấy,ngay bản thân ông bị cả một chồng gạch đổ vào chân khiến cái chân giờ vẫn đi tập tễnh.Từ đó đã dẫn tới sự thay đổi về cách khoe làng chợ Dầu: giờ đây ông luôn tự hào về một làng chợ Dầu kháng chiến với những buổi đi tập dân quân một hai những cụ già đầu tóc bạc phơ cũng rất hăng hái.

Kháng chiến bùng nổ,người dân phải dời làng đi tản cư,theo lệnh cụ Hồ ông Hai cũng đi tản cư với tinh thần “ tản cư là yêu nước,yêu nước là tản cư”.Ở nơi ở mới bao công việc bộn bề nhưng ông vẫn luôn nhớ về chợ Dầu”.Theo dõi những tin tức và ông rất vui khi nghe những tin kháng chiến: một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên tháp rùa.Một anh trung đội trưởng sau khi giết chết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng.Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hang đã bắt sống tên quan hai bốt thao ngay giữa chợ.Trong lúc đang hồ hởi với những tin tức kháng chiến thì ông Hai đã nhận được một tin sét đánh về làng chợ Dầu: làng Dầu theo Tây.Như một gáo nước lạnh tạt vào mặt ông Hai,nghe tin dữ ông Hai sững sờ “ cổ ông lão nghẹn ắng lại da mặt tê rân rân,ông lão lặng đi tưởng chừng như không thở được”.Khi chấn tĩnh lại ông còn cố tình chư muốn tin điều đó là sự thật thì lại được nghe câu chuyện kể khá dành dọt lại “ vừa ở dưới đấy lên” làm ông không  thể không tin.

Từ lúc nhận được tin dữ ông Hai rất buồn xoay quanh tâm trạng ông lúc này chỉ là những ý nghĩ vẩn vơ nó đã ám ảnh ông suốt chặng đường về nhà,ông chỉ dám “ cúi gằm mặt xuống mà đi”.Đặc biệt là tiếng chửi đổng của người đàn bà dưới xuôi “ cha mẹ tiên sư nhà chúng nó đói khổ ăn trộm ăn cắp người ta còn thương chứ cái giống Việt gian thì cho chúng một nhát” như một nhát dao cứa vào lòng ông lão.Về đến nhà ông nằm vật ra giường như người ốm “nước mắt giàn ra” niềm tin về làng chợ Dậu trong ông đã bị đổ vỡ nghiêm trọng biến thành nỗi hoảng hốt xâm lấn toàn bộ cơ thể khi nghe những tiếng : Tây ,Việt gian,cam nhông là ông lại giật mình thất vọng tràn trề,có lúc ông nghĩ quẩn “ hay là quay về làng” nhưng trở về làng là có nghĩa theo Tây bỏ cụ Hồ bỏ cách mạng.Nhưng rồi  chính tình cảm với đất nước với kháng chiến đã thức tỉnh ông rồi đi đến một quyết định dứt khoát “ làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi phải thù”.Rõ ràng lòng yêu nước rộng lớn bao trùm lên tình cảm làng quê.Càng yêu làng bao nhiêu ông  càng đau khổ day dứt bấy nhiêu.Một tình thế hoàn toàn bế tắc và tuyệt vọng khi mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi “ về làng tức là chịu làm nô lệ cho thằng Tây”.Kim Lân đã quan sát rất tinh tế và sâu sắc để diễn tả những sắc thái buồn vui những lo sợ ám ảnh của người nông dân về cái làng quê của mình.Họ đã yêu làng trong tình yêu bị thử thách,phải đặt tình yêu nước trên tình yêu làng.Phải chăng đó là thứ tình cảm thường trực trong mỗi con người Việt Nam.

Quá bế tắc ông quay ra trò chuyện với đứa con nhỏ vô cùng cảm động.Nghe con nói ngây thơ mà nước mắt ông chảy dòng dòng trên má.Ông muốn chút nỗi lòng mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhưng thực chất đó là lời tự nhủ với chính mình.Ông muốn đứa con luôn ghi nhớ “ nhà ta ở làng chợ Dầu” đã chứng tỏ tình yêu làng vô cùng sâu nặng.Tấm lòng thủy chung với kháng chiến với cách mạng với cụ Hồ  trở nên bền vững thiêng liêng.Tình yêu làng của ông Hai chân thật giản dị như chính bản chất của người nông dân.Tình cảm ấy hiền hóa như dé lúa nhành hoa trong sáng như giếng khơi đầu làng.Tình cảm ấy đã nâng lên thành tình yêu đất nước và để rồi : tình yêu làng yêu nước luôn hòa quyện trong một con người như là máu thịt.

Đến cuối truyện người đọc đã nhận ra một ông Hai vô cùng sung sướng tư hào khi nghe tin cải chính về làng mình không phải Việt gian.Nhận được tin ấy “ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người mặt ông tươi vui rạng rỡ hẳn lên.Ông loan báo cho mọi người biết cái tin “ Tây nó đã đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình.Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước.

Với cốt truyện tâm lý tạo được tình huống căng thẳng ngôn ngữ giản dị trong sáng Kim Lân đã đưa người đọc đến với một thứ cảm xúc vô cùng cao đẹp.Tình yêu làng của một lão nông dân chân đất trở thành niềm say mê đến hãnh diện và như một thói quen được khoe về làng mình.Tình yêu làng thống nhất với tinh thần kháng chiến khi đất nước đang có ngoại xâm.Tình cảm ấy của ông Hai cũng là tình cảm chung của người Việt Nam đối với tổ quốc.

Từ khóa tìm kiếm

  • cảm nhận về vẻ đẹp của ông hai
  • suy nghĩ của em về nhân vật ông hai trong truyện ngắn làng
  • cảm nhân về nv ôg hai
  • cảm nhận về hình ảnh ông hai trong truyện làng
  • cảm nhận về nhân vật ông hai
  • cảm nhận về người nông dân việt nam qua nhân vật ông hai trong truyện ngắn làng kim lân
  • cảm nhận ông hai trong làng
  • cam nhan nv ong hai trong lang
  • the he tre can lam gi de song co trach nhiem
  • cảm nhận nhân vật ông hai

Bài viết liên quan

0