16/01/2018, 13:10

Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Văn mẫu lớp 8

Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Văn mẫu lớp 8 Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Bài số 1 Tố Hữu viết bài thơ "Khi con tu hú' vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày "ác mộng" bị cùm trói trong nhà lao Thừa Thiên. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ ...

Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Văn mẫu lớp 8

Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Bài số 1

Tố Hữu viết bài thơ "Khi con tu hú' vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày "ác mộng" bị cùm trói trong nhà lao Thừa Thiên. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, tâm trạng nghệ thuật, đồng hiện qua 10 câu thơ lục bát da diết và ám ảnh. Cái mùa hè hơn 70 năm về trước ấy thật không bao giờ có thể quên!

1. Tiếng chim tu hú vọng qua song sắt nhà tù hay tiếng chim trong nỗi nhớ, trong hoài niệm?

Chim thì "gọi bầy". Lúa chiêm thì "đương chín". Trái cây thì "ngọt dần". Âm thanh ấy, hương vị ấy thể hiện nỗi nhớ đồng quê, nhớ làng xóm thân yêu. Chữ "đương chín" và "ngọt dần" gợi tả thời gian đang lặng lẽ trôi qua. Một giọng thơ bồi hồi tha thiết: "Nghe chim như nhắc tấm lồng thần hôn" (Truyện Kiều):

"Khi con tu hú gọi bầy

 Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần"

Giữa chốn ngục tù "lòng sôi rạo rực", người chiến sĩ trẻ nhớ "tiếng ve ngân", nhớ màu "vàng" của bắp, nhớ màu "đào" của nắng. Cánh sắc đồng quê trong hoài niệm trào lên trong tâm hồn biết bao bình dị, thân thiết, yêu thương:

"Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào".

Có khao khát sống mới có nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve chứa đầy tâm trạng. Ve không kêu mà là "ve ngân". Sáu trăm năm về trước, Nguyễn Trãi lấy tiếng ve để nói về cảnh tình mùa hè:

"Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

(Quốc âm thi tập)

Sau này, trong bài "Việt Bắc”, Tố Hữu lại viết:

"Ve kêu rừng phách đổ vàng".

Sau tiếng ve là màu "vàng" của bắp, là màu "đào" của nắng hiện lên. Chữ "ngân" tả tiếng ve “sôi" lên và ngân dài trong vườn quê. Chữ "đầy" gợi nắng đẹp, nắng chan hòa, nắng đầy sân, nắng rực rỡ.

Nỗi nhớ trở nên bồi hồi: nhớ bầu trời xanh, nhớ con diều sáo "lộn nhào" giữa cái mênh mông "cao rộng" của từng không. Hình ảnh con diều "lộn nhào từng không" mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tung hoành và khát vọng tự do:

"Trời xanh ccìng rộng càng cao,

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không".

Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu. Thơ nên nhạc, nên họa. Ngôn từ trong sáng, tinh luyện. Mỗi chữ được dùng như được chắt lọc qua

hồn quê và hồn thơ đậm đà: "đương chín", "ngọt dần”, "dậy tiếng ve ngân", "đầy sân nắng đào", "xanh, rộng, cao", "lộn nhào"…

Trẻ trung và yêu đời, say mê và khao khát sống, khao khát tự do. Nhà thơ đang bị đày đọa trong ngục tối, nhưng “ tinh thần ở ngoài lao" mới có cảm xúc, cảm hứng ấy.

2. Giọng thơ từ tha thiết nhớ chuyển thành uất hận sục sôi:

"Ta nghe hè dậy bên lòng

 Mà chán muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao, chết uất thôi

 Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu".

Mùa hè đã đến, mùa hè đang qua. Bao âm thanh đã "dậy bên lòng”, thôi thúc, gịuc giã: "muốn đạp tan phòng" xà lim chật chội. Không cam chịu cảnh tù đày! Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ "Ngột làm sao // chết uất thôi" với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc như nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do! Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú "gọi bầy", khép lại bài thơ là tiếng chim tu hú 'ngoài trời cứ kêu". Tiếng chim vừa gợi nhớ gợi thương, vừa giục giã lên đường chiến đấu.

"Khi con tu hú" là khúc ca tâm tình, là tiếng gọi đàn, hướng về đồng quê và bầu trời tự do với tất cả tình yêu và niềm khao khát cháy bỏng. Bài thơ ghi lại một nét đẹp bức chân dung tinh thần tự họa của người thanh niên cộng sản Tố Hữu thuở ấy. Để ta ngưỡng mộ và tin yêu.

Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Bài số 2

Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trên bước đường hoạt động cách mạng đang bị địch bắt giam tại lao Thừa Phủ – Huế. Bài thơ phản ánh tâm trạng ngột ngạt của một người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh: Tâm trạng ấy càng trở nên bức xúc khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài. Đặc biệt giữa không gian tự do ấy bỗng vang ngân tiếng chim tu hú gọi bầy. Với âm thanh da diết đó, nỗi ngột ngạt, u uất còn dồn nén và biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm hãm nổi:

Ta nghe hè dậy bên lồng
Mà chân muốn đụp tan phòng, hè ôi!

Mở đầu hài thơ, với tựa đề Khi con tu hú, tác giả muốn khẳng định đây là một thứ âm thanh mở ra mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Tác động của âm thanh này đặt vào tâm cảnh của nhà thơ càng trở nên tha thiết và thôi thúc hướng đến lự do.

Ta biết rằng, người thanh niên cộng sản Tố Hữu dù bị tù đày, tra tấn nhưng không nản chí sờn lòng. Nhà thơ đã xác định:

Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phai chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ súng kề tai
Là thân ào chỉ coi còn một nửa.
(Trăng cuối)

Trở lại câu thơ mở đầu của bài thơ: “Khi con tu hú gọi bầy”. Đó là cái thời điểm thiết tha và thiếu thốn khi nghe con tu hú gọi bầy, tiếng gọi trở về với bạn bè, đồng đội. Tiếng chim gọi bầy càng tăng thêm nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo. Tố Hữu bị bắt giam giữa lúc nhiệt tình cách mạng của tuổi thanh xuân đang sục sôi, muốn đem lất cả nhiệt huyết để cống hiến cho cách mạng.

Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức dậy một nỗi nhớ sâu xa trong Tố Hữu. Trong thế giới tăm tối của ngục tù, nhà thơ đã huy động nhiều giác quan để hình dung, tưởng tượng đồng quê thân thuộc ngoài kia:

Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hụt đầy sân nắng đào.

Một bức tranh được “vẽ” trong tâm tưởng bằng nỗi nhớ da diết. Nhịp sống của đồng quê thật rộn rã và tràn đầy sức sống. “Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt đần , sự vật đang vận động tiến dần đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ (đương chín, ngọt dần). Một mùa hè đã báo hiệu, một mùa hò với những cảnh vật, âm thanh, màu sắc, ánh nắng quen thuộc. Phải là một người tha thiết yêu cuộc sông, gắn bó máu thịt với quê hương mới có nỗi nhức nhối không nguôi đến như thế!

Trí tưởng tượng của nhà thơ được chắp cánh đến với bầu trời khoáng đạt:

Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.

Cũng là bầu trời xanh thân thiết của tuổi thơ với “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Giữa khoảng trời bao la, cao, rộng vài con sáo nhào lộn như nét chấm nhỏ nhoi giữa cái mênh mông của đất trời. Hình ảnh con diều sáo lộn nhào giữa từng không cũng là niềm khát vọng được tự do của người chiên sĩ cách mạng bị giam cầm.

Niềm khát khao đó bị dồn nén lúc này đây đã bùng lên mãnh liệt:

Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muôn đạp tun phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!

Nhịp sống trào dâng, mời gọi, thôi thúc tràn ngập vào tận ngõ ngách tăm tối của chôn ngục tù, len lỏi vào tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi biến thành nổi khát khao hành động: “muốn đạp tan phòng”.

Bài thơ có 10 câu, câu mở đầu và câu kết thúc là tiếng kêu của con tu hú. Âm hưởng tiếng kêu xuyên suốt toàn bài, tiếng kêu liền hồi, khắc khoải và da diết. Tiếng kêu vang vào thế giới chật chội, tăm tối của nhà lao và tâm trạng nhà thơ trở nên bực bội, ngột ngạt, đến nỗi phải kêu lên:

Ngột làm sao, chết uất thôi.

Bài thơ khép lại nhưng ta nghe tiếng tu hú “cứ kêu”, kêu hoài, kêu mãi…

Bài thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ gang thép đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sông, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng, và một niềm khát khao tự do cháy bỏng.

Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Bài số 3

Tố Hữu viết bài thơ “Khi con tu hú” vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày bị giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế). Không gian, thời gian, tâm trạng của tác giả đã được thể hiện qua những câu thơ đặc sắc trong bài thơ.

Bài thơ bắt đầu bằng tiếng chim tu hú gọi bầy vang vào ngục thất, nơi có một tù nhân đang bị giam cầm. Tiếng chim tu hú đã gợi lên trong tác giả nhiều điều về nỗi nhớ và hoài niệm. Tu hú thì gọi bầy; lúa chim thì đương chín, trái cây thì ngọt dần. Âm thanh và hương vị thể hiện một khung cảnh của làng quê thân yêu. Chữ “đương chín” và “ngọt dần” gợi tả sự trôi qua của thời gian một cách chậm chạp. Giọng thơ bồi hồi và da diết xuất phát từ không gian mênh mông:

Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chim đương chín, trái cây ngọt dần.

Giữa chốn ngục tù lòng sôi rạo rực, người chiến sĩ nhớ tiếng ve ngân, nhớ màu vàng của bắp, màu đào của nắng. Khung cảnh cánh đồng quê hiện lên một cách bình dị, thân thiết, yêu thương:

Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.

Chỉ có những ai có khát vọng sông mới có được nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve ngân chứa đầy tâm trạng. Đó là tâm trạng ngột ngạt, tù túng nơi buồng giam; là tất cả những gì tác giả đã cảm nhận trong những ngày tháng tự do. Sau tiếng ve là màu sắc của thiên nhiên, của nắng và của bắp. Những thứ hết sức bình dị trong cuộc sống hàng ngày giờ trở thành những hình ảnh hết sức đẹp trong thơ Tô' Hữu. Chữ “ngân” diễn tả thời gian kéo dài còn từ “đầy” diễn tả không gian có ánh nắng chan hòa và rực rỡ.

Nỗi nhớ của tác giả trở nên bồi hồi hơn với bầu trời xanh nơi có đôi diều sáo đang nhào lộn. Sự khoáng đạt của không gian là thế, mênh mông là thế, nó hoàn toàn trái ngược với sự chật chội nơi tác giả đang trú ngụ. Hình ảnh con diều lộn nhào từng không mang ý nghĩa cho sự tung hoành và khát vọng tự do, đó cũng chính là khát vọng cháy bỏng của tác giả hôm qua, hôm nay và mai sau:

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.

Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu, nó không dừng lại ở câu thơ mà đã nên nhạc, nên họa. Ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt và giàu tính hình ảnh. Các câu thơ đã thể hiện sự trẻ trung và yêu đời, niềm khát khao và say mê cuộc sống. Có thể nói nhà thơ đang ở trong lao nhưng tâm hồn thì vẫn hướng về một không gian bao la nơi có bầu trời xanh, có nắng ấm, có tất cả những gì thuộc về cuộc sống tự do ở bên ngoài.

Những câu thơ tiếp theo nhà thơ đã chuyển từ giọng điệu tha thiết sang giọng điệuuất hận sục sôi.

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.

Mùa hè đã đến và đang qua, bao âm thanh của hè đã dậy bên lòng, thôi thúc, giục tác giả đạp tan xà lim chật chội, xóa bỏ cảnh tù đày. Lòng uất hận dâng trào khiến tác giả muốn phá tan chốn ngục tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ “Ngột làm sao chết uất thôi” với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc được nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống chết vì tự do của bản thân cũng như của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú gọi bầy, khép lại bài thơ cũng là tiếng chim tu hú. Tiếng chim vừa gợi nhớ yêu thương, vừa như giục giã nhà thơ nhanh chóng về với cuộc sống của những người chiến sĩ cách mạng.

Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Bài số 4

Tiếng chim tu hú là âm thanh báo hiệu hè về. Mùa hè với không gian bao la, ánh nắng rực rỡ, sự sống trởnên rộn rã tưng bừng… Tiếng chim đã làm bừng dậy tất cả trong lòngngười tù cách mạng trẻ tuổi đang bị nhốt chặt trong phòng giam chật chội. Tiếng chim tu hú với tác giả lúc này chính tiếng gọi của bầu trời tự do của sự sống tưng bừng đã vang động sâu xa trong tâm hồn người tù đang cảm thấy vô cùng ngột ngạt vì thèm không gian và sự sống ấy.

Cái tên bài thơ “Khi con tu hú", mấy chữ đó chỉ là một mệnh đề phụ, một câu nói nửa chừng… Qua nội dung bài thơ, người đọc có thể hiểu: Khi chim tu hú kêu, gọi mùa hè về, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong cái phòng giam chật chội này, càng thèm khát cháybỏng cuộc sống tưng bừng, tự do bên ngoài… Cách đặt tên bài thơ như thế của Tố Hữu có tác dụng chuẩn bị cho người đọc đi vào mạch cảm xúc của bài thơ.

Tiếng chim tu hú là âm thanh báo hiệu hè về. Mùa hè với không gian bao la, ánh nắng rực rỡ, sự sống trởnên rộn rã tưng bừng… Tiếng chim đã làm bừng dậy tất cả trong lòngngười tù cách mạng trẻ tuổi đang bị nhốt chặt trong phòng giam chật chội. Tiếng chim tu hú với tác giả lúc này chính tiếng gọi của bầu trời tự do của sự sống tưng bừng đã vang động sâu xa trong tâm hồn người tù đang cảm thấy vô cùng ngột ngạt vì thèm không gian và sự sống ấy.

Sáu câu lục bát thật trong trẻo, thanh thoát, nhưng đã mởra cả một thế giới rộn ràng, tràn trề nhựa sống. Đó là khi hè sang, nắng đào rực rỡ, lúc chiêm chín vàng trên cánh đồng và trái cây đượm ngọt trong vườn, hạt bắt rây vang…, đó là tiếng ve vang trong vườn râm và tiếng tu hú kêu vang ngoài bão; nó là bầu trời xanh biếc cao lồng lộng và rộng tới vô tận để cho những cánh diều sáo thỏa sức nhào giữa tầng không… Tất cả sự sống như bừng dậy như bước vào độ chín, tất cả đều chan hòa ánh sáng, rực rỡ rộng hơn, khoáng đạt hơn. Tiếng chim tu hú kêu như là tiếng gọi của mùa hè; tiếng chim ấy thức dậy tất cả, mở ra tất cả và bắt nhịp cho tất cả…

Thực ra, đây chỉ cảnh mùa hè trong tâm tưởng của người chiến sĩ trẻ đang trong “cảnh thân thù". Càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong phòng giam chật chội, anh càng cảm thấy cảnh mùa hè ngoài kia mới tưng bừng, rộng rãi, mới quyến rũ biết bao! Với niềm thèm khát tự do, thèm khát sự sống cháy ruột, người tù cách mạng đã huy động mọi giác quan căng ra đón nhận mọi tín hiệu của thế giới sự sống bên ngoài; và anh đã mường tượng ra cả một bầu trời tự do bao la, một không gian tràn đầy sự sống.

Mấy câu lục bát bình dị, nhẹ nhõm mà đầy ắp hình ảnh âm thanh, màu sắc là hương vị, chẳng những đã tái hiện sinh động cảnh vật mà còn rất gợi không khí vào hè. Đằng sau mấy câu thơ là một tâm hồn thật trẻ trung, yêu đời nồng nàn, gắn bó máu thịt với sự sống, nên rất nhạy cảm để nắm bắt mọi biểu hiện phong phú của sự sống ấy trong tạo vật bao la.

Nếu sáu câu trên là cảnh thì bốn câu dưới là tình, là lời phát biểu trực tiếp những cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tiếng chim tu hú gọi trời đất vào hè, và mùa hè đã bừng dậy trong lòng người tù cách mạng, vốn đã rất đau khổ, bực bội vì “cảnh thân tù" đêm ngày hằng thèm khát tự do và thèm khát sự sống, thì giờ đây, anh càng cảm thấy không chịu nổi cái phòng giam ngột ngạt này:

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu

Cùng với ý nghĩ rất táo tợn, dữ dội (chân muốn đạp tan phòng) là cách ngắt nhịp ở hai câu 8, 9 (nhịp 6/2 và nhịp 3/3 gợi cảm giác nhói lên bực bội đến điên người) và giọng điệu cảm thán, dường như cảm xúc bực bội không nén được cứ trào ra ("hè ôi! ngột làm sao, chết uất thôi") Tất cả đều thể hiện tâm trạng ngột ngạt cao độ và niềm khao khát mãnh liệt hướng về cuộc đời tự do và sự sống bên ngoài.

Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tu hú kêu, kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú kêu. Nhưng tiếng chim mở đầu bài thơ đã đưa tác giả vào cảnh mùa hè với bầu trời tự do cao rộng và sức sống tràn đầy, thì tiếng chim tu hú kết thúc và sự sống tràn đầy, thì tiếng chim tu hú kết thúc gọi niềm chua xót, đau khổ. Đó là cách kết cấu tạo được hiệu quả nghệ thuật cao, gây ám ảnh day dứt cho người đọc.

Khi con tu hú chỉ là một bài thơ nhỏ, hình tượng nghệ thuật khá bình dị, không có gì thật tân kì, nhưng là bài thơ thật hay, có sức truyền cảm nghệ thuật mạnh mẽ. Cả hai đoạn tả cảnh (trời đất vào hè) và tả tình (nỗi lòng người tù) đều rất đạt; cảnh thật đẹp và đầy gợi cảm, có hồn, tình (tâm trạng) thì sâu, da diết.

Câu thơ lục bát của bài thơ thật mềm mại, linh hoạt. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu. Bài thơ liền mạch, cảm xúc nhất quán, giọng điệu tự nhiên, khi tươi sáng khoáng đạt, khi dằn vặt, u uất tất cả đều phù hợp với cảm xúc thơ.

Vũ Hường tổng hợp

0