Cảm nghĩ về bài Trong đầm gì đẹp bằng sen – Văn mẫu lớp 7
Cảm nghĩ về bài Trong đầm gì đẹp bằng sen – Văn mẫu lớp 7 Cảm nghĩ về bài Trong đầm gì đẹp bằng sen – Bài số 1 Nét trong sáng, cao đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời đã được ca ngợi và trở thánh chủ đề của nhiều câu tục ngữ, ca dao. Chúng ta không thể quên bài ca dao ...
Cảm nghĩ về bài Trong đầm gì đẹp bằng sen – Văn mẫu lớp 7
Cảm nghĩ về bài Trong đầm gì đẹp bằng sen – Bài số 1
Nét trong sáng, cao đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời đã được ca ngợi và trở thánh chủ đề của nhiều câu tục ngữ, ca dao. Chúng ta không thể quên bài ca dao quen thuộc:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bằng ngôn từ trong sáng, giản dị nhất, bài ca dao làm nổi bật hình ẩnh bông sen thơm ngát, đang nở trên đầm lầy. Bông sen đơn sơ, chân chất như người dân lao động mang nét đẹp bình dị, thôn dã, lúc nào cũng ngan ngát toa hương, một thứ hương thơm đặc biệt tinh khiết không pha lẫn mùi vị nào khác dù hoa sen trong đầm. Đầm lầy càng u tối, thối tha thi bóng hoa lại càng đẹp đẽ, sáng trói. Thông qua bài ca dao, hình ảnh của người dân lao động Việt Nam hiện lên một cách tự nhiên, hợp lý đến tài tình. Tâm hồn của mỗi con người được ví như một bông hoa thơm ngát, dù sống ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng giữ riêng cho mình nét trong trắng, thanh cao nguyên vẹn.
Sống trong sạch là quy tắc, luật sống cua con người Việt Nam từ bao đời nay. Nó trở thành đạo đức, nhân cách được bồi dưỡng và bổ sung truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngay từ chế độ phong kiến nhiễu nhương, thối nát, nhưng nhà nho, trí thức đã quan niệm giấy rách phải giữ lấy lề để sống một cách thanh bạch, giản dị nhưng vô cùng chân thật. Cuộc sống đầy những cạm bẫy, càng lúc càng phô bày đầy đủ những thói xấu của loài người. Nếu như ai cũng sống gần mực thì đen thì có lẽ cả xã hội này không còn tồn tại người tốt. Nhưng với truyền thống đạo lí cao đẹp từ xa xưa, người dân Việt Nam luôn ngẩng cao đầu, sử dụng nhân cách quí giá của chính mình để sống và hành động một cách chân chính nhất. Xã hội càng xấu xa thối nát chừng nào thì con người Việt Nam càng sáng trong chừng ấy. Chúng ta không thể quên bi kịch về cái chết của Lão Hạc, một nông dân chất phác, quê mùa thà chết để giữ được thanh danh không vướng bùn nhơ xấu xa. Chúng ta không thể quên được hình ảnh chị Dậu trong đêm tối đen như mực và như tiền đồ của chị quyết giữ lấy tiết hạnh, lòng thuỷ chung với chồng con. Và ta càng không thế quên được lời khẩn cầu tha thiết, xót xa, nức nở của con cò ăn đêm, quyết giữ tâm hồn trong trắng đến phút cuối cuộc đời
Có xáo thi xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con
Đây có phải là hiện thân của người dân lao động? Quả vậy, kế tục và phát huy truyền thống cao đẹp, họ luôn sống một cách ngay thẳng, chân thực trong bất cứ hoàn cảnh nào để trở thành những đoá sen thơm ngát giữa đầm.
Không thể không có những bông hoa rũ cánh, cúi xuống đầm lầy để vướng phải bùn nhơ. Cũng như trong xã hội, không thiếu những kẻ đứng trước hoàn cảnh khó khăn đã không giữ được mình. Tư tưởng hám danh hám lợi, cầu thân đã đưa họ đến những hành động đi ngược lại với lương tâm, đạo lí con người. Từ những việc nhỏ nhặt họ đã không giữ bản thân mình cho được trong sạch thì đến những việc quan trọng, to lớn hơn làm sao họ không trở nên xấu xa, nguy hiểm. Loại người như vậy là một gánh nặng, một căn bệnh của xã hội, càng trở nên trầm trọng trong cuộc sống hôm nay. Đất nước đang cần, hơn bao giờ hết những người mang đạo đức cách mạng, hết lòng vì dân mà phục vụ. Nối tiếp truyền thống xưa, các cán bộ chân chính hôm nay cũng trở thành những đoá hoa sen. Sống giữa khó khăn của xã hội đầy cạm bẫy, lọc lừa, họ vẫn xác định cho mình một lí tưởng đúng đắn. Để làm một đoá hoa sen cho mai sau, ngay từ bây giờ, ta phải tu dưỡng đạo đức, rèn luyện tinh thần, học hỏi thêm nhiều điều bồ sung lí trí nhằm có suy nghĩ chính xác khi đứng trước những ngã rẽ, biết đi trên những lối mòn quí giá của dân tộc, thêm vào những nhận thức mới mẻ của thời đại. Tất cả sẽ giúp ta trở thành người công dân tốt, không hổ thẹn với truyền thống xưa đồng thời ta cũng tự hào vì đã tiếp tục phát huy di sản tâm hồn quý báu của dân tộc.
Nói tóm lại, là người dân Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào về tất cả những gì cao đẹp được ông bà xưa truyền lại, nhất là ở tâm hồn trong trắng, thanh cao, luôn rạng ngời dù ở bất kì hoàn cảnh môi trường nào. Cũng chính vì thế, ta buộc phải suy nghĩ, hành động một cách nghiêm túc đế không làm mai một đi truyền thống này. Muốn đạt được như thế, ngay từ khi còn là học sinh, ta phải tự nhắc nhở nhau sống như hoa sen.
Cảm nghĩ về bài Trong đầm gì đẹp bằng sen – Bài số 2
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Không hiểu bài ca dao này xuất hiện từ đâu, từ bao giờ nhưng có nhiều ý kiến cho rằng đây là bài ca dao mà nghệ thuật tuyệt vời và ý nghĩa triết lí nhân sinh gắn liền với nhau tạo nên giá trị muôn đời.
Hình ảnh cây sen được miêu tả vừa cụ thể, chân thực vừa mang tính tượng trưng và khái quát rất cao. Ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen, các nhà thơ bình dân xưa đã phản ánh lẽ sống cao quý của con người Việt Nam từ ngàn đời nay: tự hào, tự tin về bản thân mình luôn giữ được tâm hồn trong sáng, phẩm chất thanh cao, dù hoàn cảnh sống có nghiệt ngã, xấu xa đến mức nào.
Câu 1 khẳng định vẻ đẹp không gì sánh nổi của hoa sen. Câu 2 và câu 3 tả thực cây sen. Câu 4 nói đến hương thơm của hoa sen. Bốn câu trong bài đều rất hay, nhưng mỗi câu hay một cách.
Câu mở đầu: Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Tác giả đã khẳng định hoa sen đẹp nhất so với tất cả các loài hoa nở trong đầm bằng một câu hỏi tu từ khéo léo lôi cuốn người nghe, đặt họ vào vị trí và tâm thế thưởng thức cùng với mình, để rồi sau khi so sánh, cân nhắc, họ sẽ rút ra kết luận không thể khác.
Câu thứ 2: Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
Để chứng minh cho lời khẳng định ở trên là đúng, tác giả tuần tự miêu tả vẻ đẹp của cây sen, từ lá xanh qua bông trắng đến nhị vàng. Trên nền xanh của lá, nổi bật là màu trắng thanh khiết của hoa; giữa màu trắng của hoa lại chen chút sắc vàng của nhị. Từ lại được dùng rất tài tình, có tác dụng nhấn mạnh sự đa dạng về màu sắc của hoa sen. Từ chen nói lên sự kết hợp hài hòa giữa hoa và nhị. Tất cả như cùng đua đẹp, đua tươi. Cảnh đầm sen giống như một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ với những nét chấm phá diệu kì.
Câu thứ 3: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh.
Câu này có vị trí đặc biệt trong toàn bài. Đó là câu chuyển (chuyển vần, chuyển nhịp, chuyển ý) để chuẩn bị cho câu kết.
Từ câu thứ hai sang câu thứ ba có sự khác thường trong cách gieo vần (ang, anh) nhưng nhiều người không để ý. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển vần và thay đổi trật tự các từ ngữ, hình ảnh đã được thực hiện một cách khéo léo, tự nhiên, hợp lí về cả nội dung và hình thức.
Hai chữ nhị vàng ở cuối câu thứ hai được lặp lại ở đầu câu thứ ba tạo nên tính liên tục trong tư duy, cảm xúc và sự liến kết chặt chẽ giữa nội dung với hình thức trong toàn bài.
Câu đầu và câu cuối là lời nhận định, đánh giá về vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của cây sen. Hai câu giữa tả thực đến từng chi tiết: lá xanh, bông trắng, nhị vàng (tả đi); rồi tả lại: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Tả từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, thật đầy đủ, tỉ mỉ. Dường như người tả đang cố chứng minh bằng được vẻ đẹp của sen: đẹp từ sắc lá đến màu hoa, màu nhị. Sau đó lại nhấn mạnh thêm bằng cách đảo ngược: đẹp từ màu nhị đến màu hoa, sắc lá. Nghệ thuật miêu tả ở đây mới đọc qua tưởng chừng đơn giản, song thực sự đã đạt tới trình độ điêu luyện, tinh vi. Nghệ thuật ấy đã tôn vinh hoa sen lên hàng hoa quý {cúc, mai, liên…) xứng đáng tượng trưng cho vẻ đẹp của con người chân chính.
Đọc những câu ca dao trên, chúng ta liên tưởng tới hình dáng thanh tao, kiêu hãnh của hoa sen và trong tâm tưởng cũng nở bừng một đoá hoa sen thật đẹp!
Câu thứ 4: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Dù mang tính chất ẩn dụ tượng trưng nhưng trước hết vẫn là sự tả thực về cây sen trong môi trường sống của nó. Sen thường sống ở trong ao hoặc trong đầm; ấy vậy mà hoa sen lại tỏa ra một mùi thơm thanh khiết lạ lùng. Có thể coi đây là đỉnh điểm của nội dung bài ca dao. Thiếu câu này, hình tượng hoa sen vẫn tồn tại nhưng không có linh hồn và ý nghĩa nhân sinh.
Nếu ta cho câu ca dao mở đầu là luận đề mang ý nghĩa khái quát về hình tượng hoa sen thì đến câu kết thúc của bài thơ, bông sen trong tự nhiên đã hóa thành bông sen trong cuộc đời một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng, không có một sự gượng ép nào, do đó mà ý nghĩa tượng trưng của hoa sen cũng mở rộng không giới hạn.
Đọc đến câu này, hầu như không ai dừng lâu để suy nghĩ tới nghĩa đen, nghĩa trực tiếp của nó mà chuyển sang hiểu theo nghĩa bóng (hàm ngôn) với triết lí sâu xa ẩn chứa trong đó. Chính vì vậy mà tính chất ẩn dụ tượng trưng của hình tượng thơ nổi lên lấn át hình ảnh thực. Nó tựa hồ như một cánh cửa đặc biệt kì diệu, khép lại nghĩa đen và mở ra nghĩa bóng một cách thần tình.
Bài ca dao gợi lên một cái gì đó rất gần gũi, thân quen giữa hoa sen với bản chất tốt đẹp của người lao động. Mùi bùn gợi liên tưởng đến những cái xấu xa, thấp hèn của mặt trái xã hội phong kiến thời suy tàn cùng với lũ tham quan ô lại vô liêm sỉ của nó.
Cảm nghĩ về bài Trong đầm gì đẹp bằng sen – Bài số 3
Những khúc dân ca, những bài ca dao cùng với sữa mẹ, lời ru của bà đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta. Con trâu, con cò, con bống, hoa sen, hoa bưởi, hoa cà… cùng với lời ca tình nghĩa đem đến cho ta men say cuộc đời, làm vơi đi ít nhiều lam lũ, vất vả. Tiếng hát của ai đã từng làm xúc động, tự hào:
“Hoa thơm thơm lạ thơm lùng
Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm”.
Và còn hoa sen trong đầm đã làm ta say mê từ thuở ấu thơ qua lời ru của mẹ. Năm tháng đã trôi qua, hồi tưởng lại, ta càng cảm thấy lòng mẹ ngạt ngào hương sen:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Cảnh đầm sen đẹp quá. Và lòng người cũng đẹp như sen. Sen là loại cây, loại hoa đẹp nhất trong đầm. Hoa súng, hoa lục bình, hoa muống màu tím biếc đã đẹp, nhưng không thể so sánh với sen. Bằng cách nói so sánh “gì đẹp bằng”, tác giả tự hào khẳng định: “trong đầm gì đẹp bằng sen”. Câu thứ hai giới thiệu cụ thể vẻ đẹp của đầm sen. Nhà thơ dân gian đang cùng chúng ta say mê ngắm đầm sen một ngày hè đẹp”
“Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”
Trên mặt hồ trong vắt, lá sen xanh xoè ra như những chiếc lọng xinh xinh, những bông sen trắng, sen hồng nở xòe ra, nhị hoa màu vàng tươi, tỏa hương thơm ngào ngạt. Lá, hoa, nhị, xanh, trăng, vàng, bấy nhiêu nét vẽ chấm phá trong một câu câu thơ tám từ mà làm nổi bật vẻ đẹp của sen với màu sắc hài hòa. Sự thần diệu của lời ca là chẳng nói đến hương sen mà người đọc vẫn cảm thấy hương sen tỏa ngát, tâm hồn lâng lâng.
“Nhị vàng, bông trắng, lá xanh”
Vẻ đẹp của đầm sen, của hoa sen cũng là vẻ đẹp của làng quê, của thiên nhiên đất nước. Tác giả miêu tả vẻ đẹp rực rỡ cảu đầm sen với tình yêu cỏ hoa tạo vật, với tất cả niềm tự hào dân tộc, và tự hào về đất mẹ quê cha.
Câu cuối bài ca dao mang một hàm nghĩa, một ẩn ý sâu sắc, đẹp đẽ. Lời thơ được cấu trúc bằng biện pháp tương phản “gần bùn”, “mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Bùn hôi tanh. Sen mọc từ sự hôi tanh của bùn nhưng sen rực rỡ, thơm ngát thế! Câu ca dao đã đưa ta đến một liên tưởng thú vị. Cuộc đời của nhân dân ta ngày xưa, dưới ách thống trị của vua quan, địa chủ, cường hào, sưu thuế nặng nề, trải qua nhiều khó nhọc, thiếu thốn. Cuộc đời vật lộn giữa bùn đen hôi tanh, nhưng tâm thế của nhân dân ta rất vững vàng “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Có thể tác giả bài ca dao này là một nhà thơ nghèo, từ chiêm nghiệm cuộc đời mà nêu lên một triết lỹ nhân sinh cao đẹp của nhân dân ta, ca ngợi bản lĩnh dân tộc: Sống thanh cao, sống trong sạch.
Ca dao dân ca có biết bao bài đặc sắc nói về hoa lá. Có bài nói về dáng trúc mang tiết tháo người hiền “trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Có bài nói về hoa nhài tinh khiết, trong trắng. Dân ca Quan họ có bài nói về trăm loài chim, trăm loài hoa… Qua đó ta thấy tâm hồn nhân dân ta rất đẹp, biết yêu mến quý trọng hoa thơm cỏ lạ mà thiên nhiên ban tặng cho con người.
Với lòng yêu hoa lá, chúng ta cảm thấy thú vị được thưởng thức cái hay, cái đẹp của bài ca dao “Trong đầm gì đẹp bằng sen…” này. Ta yêu thêm vẻ đẹp đồng quê, yêu thêm tâm hồn và tâm thế cao quý của con người Việt Nam:
“Rủ nhau ra tắm hồ sen,
Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình.
Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh
Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”…
Trong chúng ta, ai đã có lần được ngắm sen Hồ Tây, sen hồ Tĩnh Tâm (Huế), sen Đồng Tháp Mười…? Nghĩ về đầm sen, hương sen, chúng ta tự hào biết bao về người con vĩ đại của làng Sen thân thuộc như nhà thơ Bảo Định Giang đã ngợi ca:
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen,
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Cảm nghĩ về bài Trong đầm gì đẹp bằng sen – Bài số 3
Có lẽ nếu có cuộc bình chọn loại hoa nào vừa dân dã, gần gũi với đời sống người dân nông thôn đồng bằng Việt Nam vừa toát lên vẻ cao quý, thanh khiết thì hoa sen ắt hẳn giành “vương miện”. Quả thật đồng bằng nước ta từ Bắc vào Nam đâu đâu cũng có hoa sen. Hoa sen được vẽ trang trí trên đồ gia dụng. Hoa sen cũng là mô típ tạo hình cho cả Thiền môn. Đức Phật từ bi toạ trên đoá sen. Chùa Một Cột tiêu biểu cho kiến trúc Việt Nam là hình ảnh cách điệu của đoá sen nổi trên hồ nước. Núi Dục Thuý, một vùng sơn thanh thuỷ tú lừng danh, cũng được thi hào Nguyễn Trãi ví với đoá sen. Những con người tài trí lỗi lạc cũng lấy sen để biểu lộ cho cốt cách tài năng của mình như trường hợp của Mạc Đĩnh Chi trong “Ngọc tỉnh liên phú”. Trong thời đại cách mạng, nhân dân Miền Nam đã tự hào:
“Tháp Mười đẹp nhất hoa sen.
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Thật thú vị, từ thời xa xưa nhân dân Việt Nam đã từng ấp iu bài ca dao nổi tiếng về loài hoa này:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Bài ca dao này, chúng tôi đã được học từ thời “vỡ lòng” và thật bất ngờ nó có một sức sống dai dẳng trong lòng tưởng chừng nhập tâm đến mức không ý thức được sự cần thiết phải cắt nghĩa xem nó hay, nó đẹp ở chỗ nào!
Lời thơ lục bát ở đây tưởng bình lặng tuôn chảy qua bốn dòng thơ, nhiều hình ảnh được lặp lại tưởng chừng rất giản dị, dễ hiểu. Lời kết bài tưởng như cũng được lẩy ra một cách tự nhiên khẳng định cốt cách thanh cao của loài hoa quý nơi đồng nội để qua đó khẳng định phẩm chất thanh cao của người nông dân quanh năm lam lũ nơi “bùn lầy nước đọng”. Nhưng rồi đọc lại, ta vẫn thấy vỡ ra bao điều thú vị.
Hai câu đầu tác giả dân gian sử dụng lối dẫn dắt, giới thiệu rất tự nhiên, chân mộc – Trong đầm gì đẹp bằng sen. Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng- nhưng mang một giá trị tạo hình thật đặc biệt: Khóm sen nổi trội lên giữa đầm nước mùa hạ trong xanh dưới ánh nắng trời. Sắc lá xanh tươi như những chiếc ô xinh xắn nhô lên mặt nước, mát mắt, ưa nhìn. Bông sen mở cánh trắng muốt sáng lên dưới nắng trời, toả hương ngào ngạt từ nhị hoa vàng, Cách miêu tả từ bao quát đến chi tiết bằng những màu sắc tươi tắn hài hoà như vậy quả chứa đựng tình yêu sen nhiều lắm! Tác giả dân gian đã truyền tình yêu ấy qua hàng trăm, hàng nghìn năm nay đến trái tim của hàng triệu người dân Việt. Và người ta có quyền háo hức muốn nghe “hướng dẫn viên” nói gì nữa về vẻ đẹp của sen:
'Nhị vàng, bông trắng, lá xanh'
Thì ra vẫn là các chi tiết cũ. Chính các chi tiết đã biết này khiến ta “mất cảnh giác”, dễ thiếu thận trọng đúng mức trong thưởng thức. Ngẫm ra chữ thứ sáu câu lục thứ ba này không hề hiệp vần với với chữ thứ tám câu bát bên trên. Như vậy bài thơ đã đổi vần đột ngột. Vần trong thơ khác nào hệ thống kinh mạch trong một cơ thể con người. Sự đổi thay đột ngột nào chẳng gây những chấn động . Nhà thơ Huy Cận đã so sánh việc đổi vần này “có khác nào như một dòng nước đang chảy xuôi, ta dựng lên một cái đập, hoặc buộc dòng nước đổi chiều, đổi vần để bắt chúng ta phải chú ý, chỗ dòng nước cuộn lên, buộc ta phải quan sát, phải chứng kiến một sự kiện gì đây…” ( Báo Văn nghệ số 327)
Thì ra chỗ nhà thơ dân gian buộc chúng ta phải lưu ý là tuy vẫn nêu lại các chi tiết cũ nhưng đã có sự hoán đổi vị trí của chúng. Câu trên miêu tả theo trình tự từ ngoài vào trong: lá xanh, rồi bông trắng và nhấn mạnh “lại chen nhị vàng”. Dùng nhị vàng trong chức vụ bổ ngữ cho ngữ động từ “lại chen” càng nêu bật tính chất nhỏ nhoi, mong manh của nó. Do sự đăng đối trong cấu tạo, lá xanh, bông trắng, nhị vàng được hiểu như là những ngữ danh từ. Xanh, trắng vàng đóng vai trò định ngữ. Đến câu sau nhị vàng được nêu lên đầu tiên, rồi đến bông trắng và cuối cùng là lá xanh. Cũng do cấu trúc đăng đối nên có thể hiểu vàng, trắng, xanh ở đây đóng vai trò vị ngữ (Nhị thì vàng, bông thì trắng; lá thì xanh) làm tăng tính khẳng định, xác nhận những đặc điểm của sen. Chúng ta hình dung như được tác giả dân gian đang tỉ mỉ “lật từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng” để củng cố niềm tin của ta vào nhận xét “trong đầm gì đẹp bằng sen” (Huy Cận – Tài liệu đã dẫn) đã được nêu một cách tường minh ở câu thơ mở bài. Ừ, thì hoa sen đẹp thật , đẹp nhất trong đầm rồi!
Nhưng tác giả dân gian đâu nỡ để ta dừng lâu ở cảm nhận hời hợt, bề mặt ấy. Câu cuối đến như một “giọt nước làm đầy cốc nước” nâng hẳn chất của câu ca dao lên. Người nghệ sĩ dân gian đâu chỉ phô diễn nghệ thuật tạo hình và đâu chỉ thuyết phục người ta về tài năng miêu tả mà còn là thuyết phục người ta về triết lí “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Thì ra từ vẻ đẹp của màu sắc, hương thơm của sen người nghệ sĩ bình dân xưa đã khéo léo đưa ra bài học về cách sống, về đạo lí làm người. Bài học đạo lí, lẽ sống ấy lại được rút ra một cách nhẹ nhàng từ thảo mộc quê hương. Nhẹ nhàng, hợp lí, thâm thuý và dễ tiếp nhận biết bao!
Bài ca dao có sự hài hoà máu thịt giữa hình thức nghệ thuật (vần thơ, cách miêu tả, cách sử dụng từ ngữ) với tình cảm, ý tưởng, xứng đáng là một hòn ngọc quý trong kho tàng thơ ca dân gian dân tộc. Lời thơ giản dị, ý tưởng sâu xa thuyết phục người nghe, cả tình cảm lẫn lí trí. Phải chăng bài ca dao này là điểm xuất phát để kiến tạo nên những vần thơ bác học có hình ảnh hoa sen cao khiết, thanh thoát đã nói trên? Nhân dân Nam Bộ tự hào: “Thấy dừa thì nhớ Bến Tre. Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười” phải chăng cũng xuất phát từ một cội nguồn tương tự.
Vũ Hường tổng hợp