16/01/2018, 13:01

Bình luận câu tục ngữ “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho” – Văn mẫu lớp 7

Bình luận câu tục ngữ “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho” – Văn mẫu lớp 7 Bình luận câu tục ngữ "Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho" – Bài số 1 Trong xã hội phong kiến xưa kia, phần lớn của cải do người dân lao động làm ra rơi vào tay giai ...

Bình luận câu tục ngữ “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho” – Văn mẫu lớp 7

Bình luận câu tục ngữ "Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho" – Bài số 1

Trong xã hội phong kiến xưa kia, phần lớn của cải do người dân lao động làm ra rơi vào tay giai cấp bóc lột. Bọn chúng sống xa hoa, phè phỡn trên mồ hôi nước mắt dân nghèo. Thằng còng làm cho thằng ngay ăn, Ngồi mát ăn bát vàng là những sự thực phũ phàng diễn ra hằng ngày. Bởi thế, ông cha ta đã thể hiện rõ ràng quan điểm của mình về lao động và hưởng thụ; qua đó phản ánh mơ ước, khát khao có dược sự công bằng, hợp lí trong xã hội:

Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ đem phần đến cho.

Câu tục ngữ trên đúc kết một nguyên tắc sống bất di bất dịch dưới hình thức mộc mạc, giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng. Có làm thì mới có ăn – đó là một thực tế hiển nhiên ai cũng thấy rõ. Có lao động mới làm ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ đời sống con người. Lao động là niềm vui của mỗi người. Lao động thúc đầy sự phát triển không ngừng của xã hội.

Một trong những quy luật sống cơ bản của con người là phải làm việc, phải tự lập, trước hết là để nuôi sống bản thân, sau đó là góp phần xây dựng cuộc sống chung của cộng đồng. Khác với các sinh vật khác sống dựa vào thức ăn có sẵn kiếm được trong thiên nhiên, con người phải lao động sáng tạo, làm ra mọi của cải phục vụ đời sống. Trên đồng ruộng, nông dân vất vả quanh năm, đổ mồ hôi, sôi nước mắt, làm ra củ khoai, hạt lúa nuôi đời. Trong nhà máy, công xưởng, người thợ ngày đêm miệt mài sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Đó là những người lao động chân chính. Họ xứng đáng được hưởng thành quả của mình và xứng đáng được xã hội tôn trọng.

Nếu việc phân phối thành quả lao động thực sự dựa trên mức độ cống hiến của mỗi người thì nó sẽ đem lại công bằng, hợp lí. Đồng thời mỗi cá nhân sẽ tự đánh giá được năng lực bản thân, từ đó có tinh thần tự chủ, tự tin, sáng tạo trong lao động. Giá trị con người vì vậy được khẳng định một cách khách quan và đúng đắn hơn. Công bằng, hợp lí là một trong những động lực thúc đẩy quá trình phát triển của mọi lĩnh vực xã hội.

Dưới chế độ cũ, quyền lợi của giai cấp thống trị gắn liền với quyền lợi của giai cấp bóc lột. Vì thế mà nguyên tắc: Có làm thì mới có ăn khó có thể thực hiện được. Vai trò của người lao động không được đánh giá đúng mức. Người làm ra của cải vật chất lại phải sống nghèo khổ, thiếu thốn, trong khi đó, kẻ không làm thì lại được hưởng thụ rất nhiều. Điều đó tạo ra sự bất công, đẩy mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, khiến nền kinh tế lâm vào tình trạng ngừng trệ và suy thoái.

Câu tục ngữ trên đây vừa là quan niệm đúng đắn của nhân dân ta về cống hiến và hưởng thụ vừa là lời cảnh cáo phê phán những kẻ bóc lột, ăn bám. Qua câu tục ngữ, người xưa còn khẳng định lao động là tiêu chuẩn, là thước đo phẩm giá con người. Kẻ nào không yêu lao động, vô trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời thì không xứng đáng làm người.

Ý nghĩa đúng đắn và tích cực của quan niệm này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc phân phối trong xã hội ta ngày nay: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Tất cả những người trong độ tuổi lao động phải làm việc. Mỗi người cống hiến cho gia đình, xã hội theo năng lực của mình. Nguyên tắc phân phối công bằng sẽ thúc đẩy nền kinh tế không ngừng phát triển, đem đến cho xã hội những thành quả tốt đẹp. Sự công bằng và hợp lí sẽ trả lại giá trị cao quý đích thực cho người lao động, phá vỡ cơ sở của mọi biểu hiện tiêu cực như lười biếng, ỷ lại, tham nhũng…

Trong tình hình đất nước ta đang trên đà đổi mới, ý nghĩa câu tục ngữ trên đây càng được khẳng định là đúng đắn và khoa học. Chúng ta tin tưởng rằng, với sự đóng góp tích cực của mỗi cá nhân vào sự nghiệp dựng xây đất nước, bảo vệ nguyên tắc công bằng xã hội, chẳng bao lâu nữa, đất nước ta sẽ thực sự giàu mạnh, đủ sức sánh vai với các cường quốc trên thế giới, như ước nguyện tha thiết của Bác Hồ kính yêu.

Bình luận câu tục ngữ "Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho" – Bài số 2

Đế nói về vai trò cũng như giá trị của lao động trong cuộc sống, nhân dân ta thường khuyên bảo nhau:

Có làm thì mới có ăn Không dưng ai dễ dem phần đến cho.

Thật vậy, trong phạm vi toàn xã hội, của cải vật chất cũng như tất cả các giá trị tinh thần, không tự dưng mà có. Do đó, mọi người phải hăng say lao động để tạo ra của cái vật chất nuôi sống chính bản thân mình, gia đình mình và góp phần xây dựng quê hương, đưa đất nước tiến lên giàu mạnh.

Trái lại, không lao động, lười biếng lao động, con người sẽ thiếu thôn, khổ sở mọi mặt, sõ chết đói. Từ đó, xã hội sẽ hủy diệt, thê' giới không còn bóng dáng của con người.

Nếu xét trong phạm vi của một gia đình, một con người thì giá trị của lao động vẫn không thay đổi. Bất kì gia đình nào, con người nào chăm chỉ lao động đều được ăn no, mặc ấm. Cho nên, cuộc sống của cá nhân đó chẳng những hạnh phúc mà gia đình và xã hội cũng được yên vui. Ngược lại, không chịu lao động, không yêu thích lao động, con người đó sẽ là kẻ ăn bám, cuộc sống luôn phụ thuộc vào người khác và trở nên ngột ngạt, tù túng.

Xét cho cùng, nguyên tắc “có làm thì mới có ăn” sẽ là đòn bẩy, thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển, là nguồn động viên, cổ vũ tinh thần hăng hái, mê say, yêu thích lao động của tất cả những người tham gia sản xuất. Mặc dù công việc của mỗi người trong xã hội và mỗi gia đình khác nhau nhưng lại có tính chất bổ sung cho nhau, góp phần làm đa dạng, phong phú thêm bức tranh cuộc sống. Người công nhân ngày đêm cần cù lao động trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ để tạo ra cho xã hội các sản phẩm công nghiệp có chất lượng cao. Người nông dân dầm mưa dãi nắng, lam lũ nơi đồng ruộng, nơi vườn tược để sản xuất ra lúa gạo, ngô khoai, rau quả… nuôi sống bản thân mình, gia đình mình, đồng thời cung cấp nông sản cho toàn xã hội. Các nhà bác học, nhà khoa học có những đêm không ngủ vì miệt mài nghiên cứu khoa học để cống hiến cho toàn thể loài người. Một số y – bác sĩ là người mẹ hiền, dành nhiều thời gian và công sức để chăm sóc, ân cần thăm hỏi, tận tình cứu chữa bệnh nhân cho mau lành bệnh, chóng vượt qua cơn nguy kịch. Những nhà giáo – những kĩ sư tâm hồn – từng đêm trăn trở bên trang giáo án để khi lên lớp mang hết khả năng của mình truyền đạt cho đàn em thân yêu những kiến thức cơ bản nhất, sâu rộng nhất…

Thế nhưng trong xã hội cũ, nguyên tắc lao động và phân phối mà câu tục ngữ trình bày có được thực hiện một cách nghiêm túc, triệt để hay không? Thật ra dưới các triều đại phong kiến, nhất là xã hội ta trước Cách mạng tháng Tám 1945 có rất nhiều người tích cực lao động mà vẫn không có ăn hoặc thiếu ăn. Cuộc sống của họ vừa nghèo khổ, vừa đói rách, rất thảm thương. Ngược lại, có không ít những kẻ chẳng chịu làm việc gì nhưng lại được ăn ngon, mặc đẹp, sống một cuộc sống sung túc, vương giả, thậm chí của cải, vật chất của những kẻ “ngồi mát ăn bát vàng” đó còn trở nên thừa thãi, phải đổ đi.

Tại sao lại có hiện tượng ấy?

Như chúng ta đã biết, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, xã hội Việt Nam có sự phân hóa rõ rệt do ảnh hưởng của chính sách khai thác thuộc địa được đẩy mạnh trên quy mô lớn của bọn thông trị. Các thế lực phong kiến đã cấu kết với bọn thực dân để chiếm đoạt ruộng đất, xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ và ra sức bóc lột của người lao động. Đặc biệt, giai cấp nông dân và giai cấp công dân chịu nhiều đắng cay, thiệt thòi nhât trong xã hội. Giai cấp nông dân chiếm trên 90% số dân, bị thực dân – phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề bằng các thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch. Họ bị bần cùng hóa và phá sản. Họ phải đi làm thuê, sức cùng, lực kiệt mà vẫn không đủ ăn do giai cấp địa chủ phong kiến trả tiền công rẻ mạt. Còn giai cấp công nhân bị ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến, địa chủ người Việt. Cho nên, họ cũng có làm mà chẳng có ăn như giai cấp nông dân.

Trong xã hội ta ngày nay với sự công bằng, văn minh và ưu việt, người dân lao động hoàn toàn làm chủ xã hội, nhất là giai cấp công – nông, không còn vấn nạn người bóc lột người, “người là chó sói của người” như xã hội cũ. Do đó, câu tục ngữ “có làm thì mới có ăn” cũng được thực hiện và phát huy một cách năng động, sáng tạo, tích cực. Sự công bằng được nghiêm túc thực thi theo nguyên tắc: “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng”.

Tóm lại, câu tục ngữ trên không chỉ phản ánh niềm mơ ước, khát vọng của những người lao động chân chính trong xã hội cũ mà còn có ý nghĩa tích cực trong thời đại mới. Vậy nên, chúng ta phải say mê lao động để làm ra nhiều của cải, mang hạnh phúc đến cho mình, cho mọi người và đưa đất nước ta tiến lên giàu mạnh, phồn vinh, kịp sánh vai với các cường quốc khắp năm châu.

Bình luận câu tục ngữ "Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho" – Bài số 3

‘Có làm thì mới có ăn,

Không dưng ai dễ dem phần đến cho’

   Câu tục ngữ diễn đạt dưới hình thức thơ lục bát. Câu lục mộc mạc, giản dị như một lời ăn tiếng nói hàng ngày của bà con lao động về một sự thật hiển nhiên ở đời: ‘Cố làm thì mới có ăn’.Dân gian đã sử dụng cách nói điều kiện – hệ quả để chỉ ra một chân lí. ‘Cố làm’là điểu kiện; ‘có ăn’là hệ quả. Thật là dễ hiểu, vì có làm thì mới có ăn; muốn có ăn thì phải làm, phải lao động.

Hai tiếng ‘không dưng’trong câu bát nghĩa là không bỗng chốc, không tự nhiên, tự dưng mà có. Chữ ‘phần’là miếng ăn, là của cải vật chất. ‘Có con mà gả chồng gần – Nửa đêm đốt đuốc đem phẩn biếu cha’(ca dao). Nghĩa câu bát bổ sungcho nghĩa câu lục, dân gian đã nhắc khẽ người đời nên biết, nên nhớ là không tự dưng, không bỗng chốc vô cớ mà thiên hạ đem miếng ăn, đem của cải vật chất đến cho không mình.

Tóm lại, câu tục ngữ đã chỉ rõ: muốn sống, muốn tồn tại, muốn ấm no thì phải lao động; không thể sống ỷ lại thiên hạ.

    Câu tục ngữ đã khẳng định giá trị to lớn của lao động, ca ngợi sức lao động và con người lao động. Lao động trước hết để nuôi sống bản thân mình, nuôi sống gia đình mình. Lao động còn để phục vụ đất nước và nhân dân trên vị thế công dân. Có làm có lao động mới sản xuất ra mọi của cải vật chất và sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm cho đất nước ngày thêm giàu đẹp. Lao động là nguồn sống, nguồn ấm no hạnh phúc cho gia đình và xã hội.

Qua câu tục ngữ, nhân dân ta đã phê phán những kẻ lười biếng, ăn bám, chỉ biết ‘ăn dày làm mỏng’ỷ lại ‘há miệng chờ sung’. ‘Có làm thì mới có ăn’siêng năng, chịu khó lao động thì ấm no, có bát ăn bát để. Lười biếng thì đói rét, khổ cực, chẳng ai cho, chẳng ai thương ! Muốn ấm no hạnh phúc và được mọi người tôn trọng thì phải lao động, cần cù, chịu khó. Đã từ bao đời nay, ngườinông dân Việt Nam đem mồ hôi và công sức bám lấy ruộng đồng, nương rẫy, cuốc bẫm cày sâu, một nắng hai sương, cày cấy quanh năm mới làm ra được hạt gạo để nuôi sống mình, nuôi sống gia đình mình. Nhờ thế mới có lương thực nuôi bộ đội đánh giặc, mới có nhiều gạo để xuất khẩu. Khái niệm làm và ăn rất rộng lớn. Người thợ xây nhà, làm cầu đường, trường học, bệnh viện, dệt vải, làm ra mọi vật dụng cho quốc kế, dân sinh. Thầy thuốc chữa bệnh, săn sóc sức khỏe nhân dân. Giáo viên dạy học, đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động có văn hóa, có kĩ thuật cho đất nước. Lao động chân tay và lao động trí óc đều vẻ vang. Tất cả đều là nguồn nhân lực để nuôi sống xã hội, để xây dựng đất nước ngày một thêm văn minh, giàu đẹp. ‘Có làm thì mới có ăn’,từ chân lí ấy ta mới cảm nhận được, lao động là cái đáng quý nhất, người lao động là người đáng kính nhất trong xã hội.

   Câu tục ngữ trên chỉ rõ lao động là thước đo giá trị phẩm giá của mỗi người, mỗi thành viên trong gia đình, mỗi công dân trong xã hội. Cần cù siêng năng, kiên nhẫn, chịu khó, dũng cảm, sáng tạo, v.v… là những đức tính tốt đẹp được hình thành phát triển trong lao động, làm nên nhân cách công dân. Và cũng vì thế mà các thói xấu, tệ nạn như lười biếng, ỷ lại, ngại khó ngại khổ, tham lam, thích ăn ngon, mặc dẹp, xài sang mà chây lười, bóc lột, tham nhũng, xa hoà, lãng phí, v.v… đều bị cộng đồng chê cười, khinh bỉ, lên án. Dân gian nói thật hay về chuyện làm và ăn ở đời. Những câu tục ngữ ấy đã trở thành bài học luân lí thấm thía:

–        ‘Hay ăn thì lăn vào bếp’.

–        ‘Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn’.

–        ‘Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ’.

–        ‘Có khó mới có miếng ăn,

Không dưng ai dễ mang phần đến cho’

    Câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn…’nêu lên một nguyên tắc, một quan niệm đúng đắn, công bằng, về làm và ăn, về cống hiến và hưởng thụ: có làm thì có hưởng, làm tốt hưởng nhiều, làm ít, làm dở thì hưởng ít, không làm không hưởng. Trong xã hội cũ, nhân dân lao động đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn đói rét, trái lại, tầng lớp trên không làm mà lại sống trong nhung lụa. Đó là nghịch lí, bất công: ‘Thằng còng làm cho thằng ngay ăn’, ‘Kẻ ăn không hết người tần không ra.

Lao động thủ công, lao động cơ bắp thật đáng quý. Một giọt mồ hôi, một hạt cơm vàng. Nhưng lao động kĩ thuật, lao động sáng tạo, tài kinh doanh quản lí mới là phẩm chất cần có, nên có đối với mọi người sống trong nền kinh tế – xã hội tri thức.

Nếu làm mà không tiết kiệm, sống xa hoa lãng phí, cần mà không kiệm, thì có thể nói là chưa hiểu đầy đủ câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn…’.Qua câu tục ngữ trên, nhân dân ta đã đề cao lao động, nêu lên bài học giáo dục tinh thần lao động, nhắc nhở mọi người yêu lao động, biết sống bằng lao động. Bước vào đời, ai cũng phải sống bằng lao động, phải biết làm giàu một cách chính đáng bằng vốn liếng của mình, bằng chất xám và tài năng của mình. Cuộc đời đâu chỉ vì ăn mà làm, mà lao động? Còn nhiều ý nghĩa cao quý hơn. Vì sự ấm no hạnh phúc của 208 cộng đồng, vì sự phú cường của đất nước mà người người lao động, nhà nhà lao động. Làm để ăn để sống; làm còn để hiến dâng và phục vụ. Ông cha ta còn nhắc nhở: ‘Miệng ăn núi lở’,vì thế cần kiệm phải là quốc sách.

Học đi đôi với hành, học tập khoa học, kĩ thuật,… phải là niềm say mê của thanh thiếu nhi. Để có miếng ăn mà phải lấy cái xe bò làm công cụ, phải làm kiểu con trâu đi trước, người cày theo sau thì buồn lắm! Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giúp chúng ta hiếu sâu hơn hai chữ làm và ăn trong câu tục

ngữ ‘Có làm thì mới có ăn…’này. Vì thế, học giỏi, lao động giỏi, được sống trong khoa học và giàu có là chí hướng, là ước vọng của mỗi chúng ta.

Bình luận câu tục ngữ "Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho" – Bài số 4

Các câu tục ngữ luôn phản ánh đầy đủ các quan niệm của ông cha ta, không chỉ đúc kết kinh nghiệm, đưa ra những bài học quý báu mà các câu tục ngữ còn đưa ra những nguyên tắc sống cho chúng ta. Tiêu biểu là câu tục ngữ: “Có làm thì mới có ăn không dưng ai dễ đem phần đến cho”.

Câu tục ngữ nêu ra một nguyên tắc, có thể nói là một chân lí mà đòi hỏi ai cũng phải biết. Đó là muốn được hưởng thành quả thì phải tự mình lao động chứ không thể phụ thuộc, ỉ nại vào bất cứ ai. Nghĩa đen của câu tục ngữ chỉ nói đơn thuần đến cái ăn, nhưng phần nghĩa bóng của nó thì rộng hơn rất nhiều không chỉ đề cập duy nhất đến cái ăn mà còn đề cập đến nhiều giá trị vật chất và tinh thần khác. Động từ “làm” ở đây là chỉ sự lao động, khái niệm lao động đã xuất hiện từ rất, có lẽ là từ khi con người xuất hiện thì lao động cũng ra đời. Lao động cũng là một nhân tố quan trọng trong sự hình thành của ngôn ngữ và lời nói.

"Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dẽ đem phần đến cho"

Từ xa xưa, con người đã nhận ra quy luật “có làm thì mới có ăn” này, người ta phải vào rừng săn bắn, hái lượm thì mới có cái ăn từ đó mới có thể tồn tại, duy trì sự sống, chứ không có kiểu “há miệng chờ sung”, trông chờ vào sức lao động của người khác để tồn tại. Tuy nhiên, khi đất nước ta chưa phát triển thì còn rất nhiều bất công trong vấn đề này, người làm nhiều thì được hưởng ít, người không làm lại được hưởng nhiều. Thực tiễn lịch sử đã minh chứng điều đó, đó là trong thời đại phong kiến, xã hội phân chia thành các giai cấp và tầng lớp, nông dân nhận ruộng của địa chủ để làm, đến mùa thu hoạch được ba phần thì người nông dân chỉ được hưởng một phần hoặc ít hơn trong khi họ là người lao động trực tiếp để tạo ra sản phẩm, tốn biết bao mồ hôi công sức, còn những tên địa chủ không phải làm gì lại nghiễm nhiên được lấy về mình hai phần ba số sản phẩm, bất công là ở chỗ đó. Tình trạng này còn tiếp diễn cho đến khi hợp tác xã phát triển, tuy vẫn còn là hình thức làm chung ăn chung nhưng sự công bằng trong lao động đã có phần rõ ràng hơn, đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì sự độc lập về lao động của mỗi người được thể hiện rõ hơn bao giờ hết, cụ thể hưởng theo những thứ mình làm được, và tất nhiên ai không làm thì không được hưởng gì.

Có câu nói: “Lao động là vinh quang” mọi người có thể làm bất cứ một nghề nghiệp gì, quan trọng là vẫn dùng sức lao động chân chính của mình để tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của mỗi người. Nghề nghiệp không thể làm đẹp cho con người mà chỉ có con người mới tao nên sự cao quý của nghề nghiệp, không phân biệt nghề gì dù là lao động chân tay hay lao động trí óc  chỉ cần chúng ta tạo được thói quen sống tự lập, không ăn bám, lợi dụng, ỉ nại vào người khác để ta được hưởng thụ. Dân gian có câu: “Theo voi ăn bã mía” để chỉ những người chỉ biết theo sau người khác để được hưởng bổng lộc. Câu tục ngữ phê phán một cách gay gắt những con người như thế này.

Trong cuộc sống, có những người cơ thể lành lặn, dù không bị khuyết tật trông vẫn rất khỏe mạnh nhưng không chịu đi làm ăn mà lại chọn cách đi ăn xin, những người như thế không những người ta không cho mà còn bị mọi người xung quanh đả kích, châm biếm. Từ đó cho thấy chỉ có những người yêu lao động, không có thói quen dựa dẫm vào người khác thì mới nhận được sự tôn trọng của người khác.

Hãy biết lấy sức lao động của mình để tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của chính mình chứ đừng phụ thuộc dựa dẫm vào người khác, Chỉ có lao động thì ta mới có thể tồn tại. Đây chính là lời dạy mà ông cha ta muốn truyền đạt đến những thế hệ đi sau.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • van dung vai tro cua san xuat vat chat de giai thich cau noi tren :có làm thì mới có ăn không dưng ai dễ đem phan toi cho
  • ca dao nói về có làm mới có hưởng
  • suy nghi về câu có làm thì mới có ăn không dung ai dễ đem phần đấn cho
  • ý nghĩa của câu Có khó mới có biếng ăn không dưng ai dễ đem phần đến cho
0