B. Russell - Nhà triết học, nhà nhân văn học kiệt xuất của thế kỷ XX

B. Russell là nhà triết học, lôgíc học, toán học, xã hội học và chính luận kiệt xuất của thế kỷ XX, người đoạt giải thưởng Nobel về văn học. Ông là nhà tư tưởng luôn khát khao tìm kiếm chân lý, cố gắng sử dụng những thành tựu của các khoa học khác cho triết học. Là một nhà hoạt động xã hội nổi ...

B. Russell là nhà triết học, lôgíc học, toán học, xã hội học và chính luận kiệt xuất của thế kỷ XX, người đoạt giải thưởng Nobel về văn học. Ông là nhà tư tưởng luôn khát khao tìm kiếm chân lý, cố gắng sử dụng những thành tựu  của các khoa học khác cho triết học. Là một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, ông luôn đưa ra phản ứng mạnh mẽ và tham gia tích cực vào những sự kiện xã hội diễn ra trên thế giới, hăng hái đấu tranh chống lại chủ nghĩa quân phiệt, đấu tranh vì hòa bình và quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các quốc gia. Cho đến nay, các tư liệu viết về B.Russell là rất nhiều và những tư tưởng triết học của ông vẫn luôn là đề tài được nhiều học giả trên thế giới tiếp tục nghiên cứu(1).

 

B.Russell sinh ngày 18 tháng 03 năm 1872 trong một gia đình quý tộc Anh lâu đời. Cha ông - Huân tước B.Emberti là một người cấp tiến, là học trò và bạn vong niên của John Stuart - tác giả của Phân tích niềm tin tôn giáo. Mặc dù B.Russell là người nối dõi dòng họ quý tộc cao quý, song ông lại buộc phải bước vào đời bằng sức lực riêng của bản thân mình, trong khi anh trai ông lại nhận được quyền trở thành nghị sĩ theo luật lệ nước Anh thời bấy giờ. Sau này, B.Russell đã trở thành người phản đối chế độ bảo thủ hiện tồn ở nước Anh. Ông bắt đầu truyền bá những tư tưởng về “xã hội Fabian” (một tổ chức cải cách ở Anh, được thành lập vào năm 1883 -1884 bởi một nhóm trí thức theo khuynh hướng bác bỏ đấu tranh giai cấp và cách mạng, tuyên truyền cho bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội theo con đường cải cách) và gia nhập Đảng Lao động, công khai vạch trần những khiếm khuyết của chế độ xã hội tư sản.


Trong lĩnh vực triết học, B.Russell đã trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài. Trong Lịch sử triết học phương Tây (1946), B.Russell đã thừa nhận rằng, chủ nghĩa duy nghiệm phân tích hiện đại, bao gồm cả triết học của ông, chỉ khác với chủ nghĩa duy nghiệm duy tâm của Berkley và Hume ở chỗ, nó đã đưa công nghệ toán học và lôgíc học phát triển vào triết học. Có thể nói, đóng góp cơ bản của B.Russell trong lĩnh vực triết học là ở chỗ, ông đã đặt ra vấn đề cần phải hợp nhất triết học với những thành tựu mới nhất của lôgíc học, toán học và quan tâm đến những kết luận triết học được rút ra từ các nghịch lý lôgíc.


Từ năm 1898 đến năm 1920, B.Russell tự gọi mình là người theo “nguyên tử luận lôgíc”. Trong những năm tiếp theo, ông là người theo “nhất nguyên luận trung lập”, sau đó là “chủ nghĩa thực chứng lôgíc”. Tuy nhiên, trong Sự phát triển triết học của tôi (1959), ông lại thừa nhận mình đã quay lại với học thuyết của Hume khi đưa vào đó một sự bổ sung mang tính duy thực mới.


Xem xét một cách cụ thể hơn quá trình phát triển tư tưởng triết học của  B.Russell, chúng ta thấy:


Năm 1889, B.Russell theo học tại Đại học Cambridge. Ở đây, ông đã chịu ảnh hưởng của “chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối” (khách quan). Các nhà triết học thuộc trường phái này là những người tích cực truyền bá chủ nghĩa duy tâm Hegel mới và thần học, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật. Ông viết: “Từ năm 1892, tất cả những gì có ảnh hưởng đến tôi đều là ảnh hưởng từ phía chủ nghĩa duy tâm Đức, hoặc là của Kant, hoặc là của Hegel”(2). Dưới ảnh hưởng này, B.Russell đã hoàn thành tác phẩm triết học đầu tay Kinh nghiệm luận chứng hình học vào năm 1898.


Cuối 1898,  khi nghiên cứu Bản chất của phán đoánBác bỏ chủ nghĩa duy tâm của J.Moore - những tác phẩm đề cập đến vấn đề quan hệ giữa trực giác với các đối tượng vật lý, B.Russell đã từ bỏ “chủ ghĩa duy tâm tuyệt đối”. Chính vào thời kỳ này, chủ nghĩa duy thực mới đã xuất hiện trong triết học Anh - Mỹ dưới ảnh hưởng của sự phát triển với tốc độ vũ bão của các khoa học nhằm khôi phục xu hướng thực chứng ở thế kỷ XIX và xây dựng “triết học khoa học” trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Từ 1898 đến 1920, sự tiến hóa triết học của  B.Russell đã diễn ra trong khuôn khổ của trào lưu triết học này. Trong Lược khảo triết học (1910), B.Russell đã đoạn tuyệt với “chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối” của F.Bredli, bác bỏ cái gọi là “lý thuyết quan hệ nội tại” của F.Bredli nhằm bảo vệ “lý thuyết quan hệ ngoại tại” và thừa nhận chủ nghĩa đa nguyên bản thể luận. Vào năm 1918, B.Russell đã thừa nhận lập trường chủ yếu của ông là “chủ nghĩa duy thực”(3). Tuy nhiên, ông lại kết hợp những kết luận duy thực mới của mình với các chủ đề khác nhằm phản ứng lại những vấn đề mới xuất hiện trong lôgíc học và toán học thế kỷ XX và bắt tay vào việc xây dựng phương pháp phân tích để nghiên cứu những vấn đề triết học. Khi đó, phương pháp phân tích được F.Bacon và T.Hobbes đưa vào triết học đã mang một diện mạo mới do các khái niệm lôgíc học và toán học quy định và do vậy, khi  nói đến phân tích trước hết có nghĩa là chuẩn xác hóa những định nghĩa nhờ chuyển hóa chúng.


Dưới ảnh hưởng của đơn tử luận Leibniz và hệ thống triết học của nhà triết học theo chủ nghĩa duy thực mới - A.Meynong, B.Russell đã tiến hành lý giải thế giới như một kết cấu lôgíc - toán học, trong đó có sự tồn tại độc lập của các mối quan hệ mà cơ sở của chúng là những “sự kiện tản mạn” được ông hiểu là những tình huống cảm tính không thể phân chia tiếp được nữa. Trong Những vấn đề của triết học (1912), B.Russell tuyên bố rằng, việc thừa nhận sự tồn tại của những khách thể vật lý là một “giả thuyết khoa học”, bởi chúng ta không bao giờ có thể chứng minh được sự tồn tại của những sự vật khác ngoài bản thân chúng ta và kinh nghiệm của chúng ta(4). Sau này, quan niệm như vậy về thế giới đã trở thành một khuynh hướng đặc biệt, khi B.Russell triển khai những vấn đề của lôgíc toán.

Năm 1900, B.Russell đã tích cực tham gia vào Hội nghị toán học ở Paris. Tại đây, ông đã làm quen với các công trình của nhà toán học người Italia - J.Peano và những người thuộc trường phái này. Điều này đã khiến ông phải quan tâm đến những công trình nghiên cứu sâu sắc hơn về sự luận chứng lôgíc học cho toán học và cho việc ứng dụng các phương pháp của lôgíc toán vào triết học. B.Russell đã cố gắng chứng minh rằng, triết học cần phải trở thành khoa học giống như toán học, còn toán học trở thành khoa học giống như lôgíc học. Từ quan niệm này, ông đã nghiên cứu các tác phẩm của nhiều nhà lôgíc học (A.J.Morgan, J.Boull, S.Jevons, H.Frege, v.v.) và tiến hành những tìm tòi, nghiên cứu riêng của mình. Nhờ những tìm tòi ấy, ông đã viết các tác phẩm chuyên sâu về sự luận chứng lôgíc học cho toán học ở hai thập niên đầu thế kỷ XX.


Năm 1903, B.Russell cho xuất bản Những nguyên lý của toán học, trong đó ông giữ lập trường duy danh, chứ không phải duy thực đối với các khái niệm của lôgíc toán. Sau đó vài năm, ông cùng với nhà duy thực nổi tiếng người Anh là A.N.Whitehead đã biên soạn tác phẩm gồm 3 tập về lôgíc toán cổ điển Principia Mathematica (1910-1913). “Mục đích của công trình nghiên cứu này, - B.Russell viết, - là nhằm chỉ ra rằng, toàn bộ toán học thuần tuý đều bắt nguồn từ các tiền đề lôgíc học thuần tuý và chỉ sử dụng những khái niệm được khẳng định bởi những thuật ngữ lôgíc học”(5). Động cơ để B.Russell viết tác phẩm này là việc ông phát hiện ra nghịch lý tập hợp của mọi tập hợp hữu hạn trong hệ thống Frege.


Trong Lời nói đầu cho triết học toán học (1918), B.Russell đã lưu ý tới một thực tế là, mặc dù toán học và lôgíc học đã hình thành như hai khoa học hoàn toàn khác nhau, nhưng giờ đây “toán học đã bắt đầu mang tính lôgíc học nhiều hơn, còn lôgíc học cũng mang tính toán học nhiều hơn”(6). Và, khi xây dựng lôgíc học, B.Russell đã phân định rành mạch giữa lôgíc học mệnh đề và lôgíc học lớp, phát triển lý thuyết hàm chân thực và phương pháp ma trận. Những cách tân này là một bước tiến quan trọng trên con đường phát triển của lôgíc học, đi vào di sản lôgíc học cổ điển.


Trong Principia Mathematica, B.Russell tuyên bố “hoàn toàn có thể xây dựng được lôgíc học của toán học mà không dẫn đến những mâu thuẫn”(7) và đi đến kết luận rằng, để loại bỏ nghịch lý thì cần phải phân biệt rõ các cấp độ ngôn ngữ, và dựa trên cơ sở đó, cấm áp dụng các đặc trưng của một cấp độ này vào cấp độ khác. Để đạt được mục đích này, năm 1908, B.Russell đã xây dựng lý thuyết phân cấp các cấp độ khách thể của thao tác lôgíc và coi đó là cơ sở của hệ thống Principia Mathematica. Sau đó, tư tưởng này của ông đã kích thích A.Tarssky nghiên cứu một cách hết sức căn bản về khái niệm tính chân thực trong ngôn ngữ hình thức.


Chủ ý của B.Russell là quy toán học về lôgíc học, tức là xây dựng một hệ thống lôgíc học toàn vẹn và không có nghịch lý, mà khi xuất phát từ một số những “mệnh đề nguyên tử” sơ đẳng đã không thể thực hiện được. Theo ông, các nghịch lý lôgíc bị loại bỏ bằng cái giá là đánh mất các lớp định đề chân thực, không nghịch lý là điều rất quan trọng đối với toán học. Và, khi không thể chạy trốn khỏi các tiền đề nằm ngoài lôgíc học, thất bại này còn gắn liền với quan niệm duy tâm về toán học và lôgíc học. Từ quan niệm này, B.Russell đã lý giải các bộ môn khoa học này như các khoa học “tiên nghiệm”, tức là hoàn toàn nằm ngoài kinh nghiệm và không phụ thuộc vào cấu trúc của thế giới khách quan.


Với B.Russell, toán học và lôgíc học là những lĩnh vực độc lập của tồn tại, không có quan hệ nào với thế giới kinh nghiệm và do vậy, chúng phù hợp với cả chủ nghĩa duy thực mới lẫn chủ nghĩa thực chứng mới. Quan niệm này đã đưa ông đến chỗ tách rời cái chung với cái riêng, cảm tính với lý tính, bởi theo ông, cái chung có thực tại độc lập nên những tư tưởng này là phù hợp với quan niệm gắn liền chủ nghĩa duy thực mới với quan niệm của Platon về khách thể toán học - lôgíc học.


Coi yếu tố cơ bản của thế giới là “những ý niệm của Platon” hay những khái niệm chung tồn tại như một cái gì đó nằm ngoài thời gian, B.Russell đã khẳng định: “Thế giới khái niệm chung, được mô tả như một thế giới tồn tại bất biến, chặt chẽ, chính xác là cái hấp dẫn không chỉ đối với nhà toán học, với người sáng tạo ra các hệ thống siêu hình học, mà còn đối với cả những ai yêu thích sự hoàn hảo hơn sự sống”(8). Theo ông, thế giới khái niệm chung và quan hệ giữa chúng chỉ khả tri đối với nhận thức “tiên nghiệm”, bởi nó đứng đối lập với thế giới tồn tại nhất thời, bao gồm những khách thể vật lý cùng với những quan hệ đặc thù của chúng và đời sống tinh thần. Thế giới phát sinh này là cái được đem lại cho chúng ta thông qua kinh nghiệm trực tiếp mà B.Russell đã hạn chế nó ở nội dung của các cảm giác.


Bất chấp những luận điểm duy thực mới, trong ý thức của B.Russell vẫn xuất hiện giải pháp đưa ông đến gần với lập trường của chủ nghĩa thực chứng lôgíc. Cái đóng vai trò quan trọng, xét về phương diện này, là lý thuyết mệnh đề mô tả “biểu tượng không đầy đủ” và “kết cấu lôgíc” mà ông đã xây dựng vào năm 1905. Không dừng lại ở chức năng lôgíc thuần tuý của mệnh đề mô tả, B.Russell còn biến lý thuyết này thành một quan điểm nhận thức luận và áp dụng nó vào triết học. Xuất phát từ mong muốn rút ra các kết luận triết học rộng lớn từ các khái niệm và quan hệ lôgíc, ông đã áp dụng lôgíc học vào triết học, đồng thời hướng những tìm tòi triết học vào lôgíc học. Trong cuốn Nhận thức của chúng ta về thế giới bên ngoài như lĩnh vực tác động của phương pháp khoa học trong triết học (1914), B.Russell đã đi đến quan niệm rằng, “nghiên cứu lôgíc học trở thành nghiên cứu chủ yếu trong nghiên cứu triết học; nó đem lại phương pháp nghiên cứu triết học, còn toán học đem lại phương pháp cho vật lý học”(9). Theo ông, đối tượng của triết học cần phải là sự phân tích các khoa học về mặt lôgíc học; nó có nhiệm vụ phát hiện ra cấu trúc tối hậu của tư liệu khoa học dưới dạng những sự kiện đơn giản và có thể ghi nhận được nhờ những mệnh đề đơn giản.


Trong lý thuyết mô tả, phù hợp với định hướng duy danh của mình trong vấn đề này, B.Russell đã chứng minh rằng, các mệnh đề mô tả có chức năng ký hiệu - lôgíc khác với tên gọi của nó và không mang nghĩa của bản thân đối tượng. Chúng là biến thể của các “biểu tượng không đầy đủ”, không có nghĩa xác định. Nếu mệnh đề này biểu thị một cái gì đó khác với “biểu tượng không đầy đủ” thì nó là mệnh đề sai. Để thoát ra khỏi bế tắc này, theo ông, cần phải thừa nhận mệnh đề mô tả không biểu thị denotate (tên gọi), mặc dù điều đó mâu thuẫn với ngôn ngữ hàng ngày. Thế nhưng, đó lại là sai lầm của trực giác ngôn ngữ, mà theo B.Russell, việc xác định nó cho phép chúng ta né tránh được những thuật ngữ riêng và giải quyết được nghịch lý tồn tại của những đối tượng không tồn tại.


Tuy nhiên, những luận điểm ấy đã đưa Russell đến những sai lầm nghiêm trọng về phương diện triết học. Khi chuyển “tồn tại” sang biểu tượng (quantum) của các mệnh đề hiện sinh và thay thế vấn đề về tồn tại bằng vấn đề về sự “giả định” có chung những dấu hiệu nằm trong mệnh đề mô tả, B.Russell đã tuyệt đối hóa một cách sai lầm ý nghĩa của thao tác này, đã hòa tan các loại hình tồn tại khác nhau về chất vào khái niệm “tồn tại nói chung” và chuyển dịch một cách sai trái tính không có vị từ của “tồn tại nói chung” sang mọi loại hình ấy. Không chỉ thế, ông còn đồng nhất mọi loại hình tồn tại với tồn tại trong ý thức của chủ thể có tư duy lôgíc. Qua đó, vấn đề tồn tại đã được ông lý giải theo lối duy tâm chủ quan.


Trong Nhận thức của chúng ta về thế giới bên ngoài như những tác động của phương pháp khoa học trong triết học, B.Russell đã cố gắng giải phóng hoàn toàn khỏi khái niệm “khách thể vật chất”. Ông phân tích những dữ liệu cảm tính mà, xét từ góc độ phân tích, được gọi là “dữ liệu tối hậu” về thế giới do tính không quy giản được của chúng. Quan điểm “nguyên tử luận lôgíc” và “nhất nguyên luận trung lập” của ông đã bắt đầu hình thành ở đây.


Lý thuyết “nguyên tử luận lôgíc” (“chủ nghĩa đa nguyên tuyệt đối”) được B.Russell đưa ra trong các bài viết của hợp tuyển Chủ nghĩa thần bí và lôgíc học (1917) và trong tập bài giảng Triết học của nguyên tử luận lôgíc (1918). Lý thuyết này “thường xuyên len lách vào triết học thông qua việc nghiên cứu toán học một cách có phê phán”(10). Cái đã có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành quan điểm đa nguyên luận này của B.Russell là Lược khảo lôgíc học - triết học của L.Wittgenstein. Theo B. Russell, nhiệm vụ của nguyên tử luận lôgíc là sử dụng những sự kiện tối giản để tạo ra một bức tranh khoa học về cấu trúc một cách phù hợp với cấu trúc của ngôn ngữ lý tưởng về mặt lôgíc, giống như ngôn ngữ của “Principia Mathematica”. Song, nguyên tử luận lôgíc lại hóa ra là một sự tư biện trừu tượng và tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy ngã.


Trong Phân tích tinh thần (1921), Phân tích vật chất (1927) và Lược khảo triết học (1928), do ảnh hưởng của nhà triết học thực dụng W.Jemes, của những người theo “chủ nghĩa duy thực mới” và chủ nghĩa Mach ở Mỹ, B.Russell đã phát triển hệ thống “nhất nguyên luận trung lập” mà theo đó, cơ sở đầu tiên của vạn vật không phải là vật chất, mà là một “vật liệu trung lập” nào đó và cũng do vậy, ranh giới giữa cái vật chất và cái tinh thần, cái vật lý và cái tâm lý bị thủ tiêu. Phát triển quan niệm này, trong Phân tích vật chất, ông đã tuyên bố rằng, “vật chất trở nên ít có tính vật chất hơn, còn tinh thần - ít có tính tinh thần hơn so với lẽ phải giả định”(11). Theo ông, tinh thần và vật chất không đối lập nhau, không khác nhau và do vậy, “không còn tồn tại nhị nguyên luận của vật chất và lý tính: vật chất trở nên giống với lý tính hơn, lý tính trở nên giống với vật chất hơn”(12). Thực ra, B.Russell, cũng thừa nhận có một sự khác biệt nào đó giữa cái vật lý và cái tâm lý, nhưng ông cho đó chỉ là sự khác biệt về quan hệ, chứ không phải về phương diện bản thể luận của chúng. Theo ông, “vật liệu trung lập” hay các bộ phận của nó (“những thể thống nhất trung lập”) có thể được tổ chức theo các con đường khác nhau, theo các loại quan hệ khác nhau, cấu thành vật chất trong một số trường hợp, còn tinh thần - trong một số trường hợp khác. “Vật lý học nghiên cứu một số quan hệ, còn tâm lý học thì nghiên cứu một số quan hệ khác”(13).


Vào năm 1940, B.Russell đã xuất bản một công trình nghiên cứu mới của ông - Nghiên cứu nghĩa và chân lý, trong đó, mặc dù vẫn thể hiện thiện cảm với chủ nghĩa thực chứng lôgíc và tán thành với nó ở nhiều điểm, song ông không chấp nhận chủ nghĩa thỏa hiệp và chủ nghĩa vật lý của các nhà thực chứng lôgíc và phê phán họ ở điểm này. Ông cũng bác bỏ lập trường của E.Mach. Khác với tất cả các nhà triết học ấy, ông đã cố gắng lý giải khái niệm “sự kiện” như một cái khách quan và không phụ thuộc vào tư duy của chúng ta. Thế nhưng, ông đã không đi đến chủ nghĩa duy vật, vì “sự kiện” theo quan niệm của ông, là cái khác với “những yếu tố kinh nghiệm”, không mang tính chủ quan, nhưng lại phụ thuộc vào “khách thể” mà xét về thực chất, là những kết cấu lôgíc dựa trên “những yếu tố kinh nghiệm” và do vậy, không chỉ một vòng tròn luẩn quẩn đã xuất hiện trong suy luận của ông, mà cả chủ nghĩa hiện tượng cũng xuất hiện.


Trong một tác phẩm lớn - Nhận thức của con người, lĩnh vực và giới hạn của nó (1948) mà B.Russell đã giành tám năm để hoàn thành nó, dường như ông muốn tổng kết quá trình hình thành và phát triển quan điểm nhận thức luận của mình. Trong tác phẩm này, sắc thái của chủ nghĩa hoài nghi và thuyết bất khả tri lại nổi bật lên. Nếu như, trong Phân tích vật chất, ông đã khẳng định “lập trường duy nhất hợp lý trong các vấn đề về thế giới vật lý là ở thuyết bất khả tri hoàn toàn đối với vạn vật”(14), thì trong tác phẩm này, ông đã đưa ra quan niệm về tính bất khả tri của chân lý. Khi đặt vấn đề liệu chúng ta có hiểu biết chắc chắn về tính chân thực của các kết luận khoa học hay không, ông cho rằng, “nhận thức chịu sự chi phối quá lớn của những tiền đề sinh học và do vậy, là ảo tưởng lừa dối”(15). Điều đó cho thấy B.Russell đã trở nên đặc biệt gần gũi với những quan điểm của Hume.


Thực ra, B.Russell đã cố gắng thoát ra khỏi vũng lầy của sự hoài nghi tuyệt đối, khi ông thừa nhận niềm tin là cái nằm ngoài kinh nghiệm và sự tồn tại của thế giới bên ngoài. Theo ông, “nếu loại bỏ niềm tin như vậy sẽ không còn cơ sở nào để thừa nhận khoa học trong khuôn khổ rộng lớn của nó, mà việc không thừa nhận khoa học thì lại là điều không hợp lý”(16). Để khoa học trở nên hợp lý, B.Russell đã đưa ra năm định đề nhận thức lý luận: “tính bất định giả danh của những hiện tượng, tính độc lập của quan hệ nhân quả, tính liên tục về không - thời gian, định đề cấu trúc và định đề ngoại tỷ”, mà theo ông, là cần thiết để minh biện cho những khái quát bằng quy nạp trong khoa học và là những định đề mang tính tiên nghiệm(17).


Sự phát triển triết học của tôi là công trình kết thúc quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học của B.Russell. Ở đây, ông đã một lần nữa cố gắng khắc phục bất khả tri luận, nhưng lại thất bại. Luận chiến với các đại diện của chủ nghĩa thực chứng lôgíc và trường phái “phân tích ngôn ngữ”, B.Russell đã chỉ rõ sự bất đồng chủ yếu giữa ông với họ thể hiện ở sự bất đồng về luận điểm coi việc thừa nhận sự tồn tại của thế giới bên ngoài là một sự nhảm nhí đã lỗi thời. Theo ông, sự thất bại về phương diện triết học của họ được thể hiện ở chỗ, họ đã lãng quên lẽ phải và sa vào chủ nghĩa duy ngã. Rằng, triết học phân tích ngôn ngữ đã “không căn cứ trên một cơ sở rộng rãi, vững chắc của nhận thức và tách rời khỏi thế giới mà triết học từ Thalet đến nay vẫn cố gắng hiểu”(18).


Trong thời kỳ thế chiến thứ nhất và sau đó là trước thế chiến thứ hai, B.Russell đã thể hiện rõ là người theo chủ nghĩa hòa bình, khi phản đối nước Anh tham gia chiến tranh. Vì lý do này, ông đã từng bị cầm tù trong thời gian thế chiến thứ nhất. Năm 1920, ông đến Liên Xô và đã tiếp xúc với V.I.Lênin. Trong Tiểu sử của mình (1968), ông đã ghi lại cuộc gặp gỡ này và khẳng định không tìm thấy tiếng nói chung giữa hai người. B.Russell cho rằng, V.I.Lênin giữ lập trường mácxít một cách kiên định, còn ông thì “đã và sẽ là người chống lại chủ nghĩa Mác”(19). Song, ông rất ấn tượng về V.I.Lênin và đánh giá V.I.Lênin làm một nhà hoạt động chính trị, một con người rất cao đẹp, bởi ở V.I.Lênin luôn có sự giản dị và niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp của mình. Khi trở về Anh, B.Russell đã viết tác phẩm Thực tiễn và lý luận của chủ nghĩa Bônsêvích (1920). Tác phẩm này đã cho thấy rõ ông không hiểu mục đích của những sự kiện trọng đại đang diễn ra ở Nga. Ông tỏ ra sợ hãi cách mạng xã hội. Trong Con đường dẫn đến tự do (1918), ông đã vội vàng tuyên bố rằng, thế giới cần được cải biến nhưng chỉ theo con đường hòa bình và do vậy, cần phải xác lập tình yêu và sự đồng thuận giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.

 

Những năm đầu chiến tranh thế giới thứ hai, B.Russell coi thành tựu cao nhất của văn minh nhân loại là “nền dân chủ Anh” và văn hóa Anh. Trong thời gian chiến tranh và những năm sau đó, ông đã nhiều lần đến Mỹ và viết về những phẩm chất vượt trội của “lối sống Mỹ”. Năm 1946, trong Những giá trị trong kỷ nguyên nguyên tử, ông đã bảo vệ tư tưởng về chiến tranh hạt nhân phủ đầu chống lại Liên Xô. Tuy nhiên, sau đó, ông đã thừa nhận quan điểm này là sai lầm lớn nhất trong đời mình và lên án chiến tranh hạt nhân.


Trong các tác phẩm được công bố sau thế chiến thứ hai - Quyền lực và cá nhân (1949), Hy vọng trong thế giới thường biến (1957), B.Russell quan tâm nhiều đến những vấn đề chiến tranh và hòa bình. Thái độ của ông đối với chiến tranh vẫn mang tính chất yêu chuộng hòa bình và chứa đựng những mâu thuẫn trái ngược. Đôi lúc ông còn khẳng định “chiến tranh từ xưa tới nay đều là động lực chủ yếu của xã hội”(20). Nhưng, trong các tác phẩm được viết vào những năm 60 - Lương tri và chiến tranh nguyên tử (1960), Con người có tương lai hay không (1961), Chiến thắng vũ khí (1963), Tội phạm chiến tranh ở Việt Nam (1967), ông đã thể hiện rõ là người tích cực chống lại chiến tranh. Ông viết: “Trước khi xuất hiện vũ khí nguyên tử, tôi không phản đối chiến tranh, vì cho rằng chiến tranh có lúc là cần thiết. Nhưng bây giờ, khi vũ khí hạt nhân xuất hiện, tôi chống lại chiến tranh”(21).


Để cứu thoát loài người khỏi một cuộc chiến tranh mới, B.Russell đã đưa ra tư tưởng thành lập một “nhà nước toàn cầu”. Tư tưởng này, về thực chất, mang tính không tưởng; nó xuất hiện dựa trên hệ thống quan điểm đạo đức học của ông, đặc biệt là căn cứ trên nguyên tắc về “mệnh lệnh tối cao”: hãy hành động như thế nào đó để kích thích ở con người những khát vọng mang tính hài hòa lớn hơn những khát vọng đối kháng. Xuất phát từ nguyên tắc này, trong Xã hội loài người xét từ góc độ đạo đức và chính trị, ông đã xây dựng một hệ thống những luận cứ đạo đức học nhằm bảo vệ hòa bình.


Vốn là một nhà nhân văn theo định hướng dân chủ, nhưng cho đến cuối đời, B.Russell vẫn không khắc phục được những hạn chế trong quan niệm trừu tượng về chủ nghĩa nhân văn, mặc dù trong những năm cuối đời, ông đã tổ chức những hoạt động cụ thể nhằm chống lại chính sách hiếu chiến của Mỹ. Luôn tin tưởng vào “những thiên kiến của người theo chủ nghĩa tự do thủ cựu”, song ông vẫn tỏ thái độ hoài nghi đối với các quyền tự do mang tính hình thức ở phương Tây. Ông cho rằng, “trong thế giới tự do, cá nhân luôn bị áp bức bởi cái gọi là “dư luận xã hội” do các nhóm xã hội thống trị đưa ra”(22). Trong một số tác phẩm viết về đạo đức, chính trị của mình, ông đã cảm nhận thấy ngày một sâu sắc hơn sự khủng hoảng của văn hóa phương Tây(23).


Vào những năm 20 của thế kỷ XX, B. B.Russell đã dành nhiều thời gian cho vấn đề giáo dục. Trong lời nói đầu viết cho tác phẩm Về giáo dục trẻ em ở độ tuổi trước khi đến trường (1926), B.Russell cho rằng, nếu tình yêu được củng cố bằng tri thức “trở thành cơ sở hiện thực của giáo dục, thì thế giới sẽ được cải biến”(24). Trong  tác phẩm này cũng như trong Khoa học và nghệ thuật dưới chủ nghĩa xã hội (1919) và Giáo dục và văn minh (1934), B.Russell đã kịch liệt phê phán hệ thống giáo dục Anh, chống lại ảnh hưởng của giới đầu sỏ tài chính và Giáo hội đến hệ thống này, đòi hỏi dân chủ hóa giáo dục và yêu cầu để cho trẻ em tự bộc lộ những khả năng, tính sáng tạo của mình thay vì kiểu giáo dục áp đặt suy nghĩ của người lớn đối với chúng. Mặc dù rất tâm huyết với giáo dục, nhưng ông không biên soạn giáo trình về lý luận giáo dục giống như H.Braudi và J.Dewey. Những tư tưởng giáo dục của ông khi áp dụng vào thực tiễn đã không đạt được kết quả như mong muốn.


Bình luận các mục từ “văn minh”, “dân chủ”, “lịch sử”, v.v. trong Từ điển về những vấn đề nhận thức luận, vật chất và đạo đức, B.Russell đã cho thấy ông “không bao giờ chấp nhận một lược đồ về phát triển lịch sử giống như lược đồ của Hegel và của Mác”(25). Đối với ông, sử học không phải là khoa học, mà là nghệ thuật, mặc dù có thể chỉ ra được một số xu hướng phát triển chung của tiến trình lịch sử. Nếu Mác, Hegel và Spengler tin tưởng vào “các quy luật chung của sự phát triển lịch sử, hoặc là các quy luật tiến hóa, hoặc là các quy luật có chu kỳ, thì các quy luật đó đối với tôi không tồn tại và không bao giờ là thực tại. Các quy luật này phản ánh những luận điểm riêng của tôi đối với vũ trụ”(26). Do vậy, trong Phái dân chủ xã hội Đức (1896), ông đã tỏ thái độ không tán thành quan niệm duy vật về lịch sử. Trong bài viết ở những năm 30 của thế kỷ XX - Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít và trong những tác phẩm, tiểu luận khác, B.Russell luôn bác bỏ học thuyết mácxít về tiến bộ xã hội. Ông nhấn mạnh: “Tôi không tin rằng có một tất yếu biện chứng nào đó trong sự biến đổi lịch sử”(27). Vào trước những năm 20 của thế kỷ XX, B.Russell truyền bá tư tưởng chủ nghĩa xã hội Gilde với tư cách phản đề của chủ nghĩa Mác, mặc dù ông cũng chống lại các tổ chức độc quyền lớn, coi chúng là mối nguy hiểm đối với tự do tư sản.


Trong Các lý tưởng chính trị (1917), Các nguyên tắc tái thiết xã hội (1916), Quyền lực (1938), Quyền lực và cá nhân (1949) và Động cơ hoạt động của con người (1952), B.Russell đã dựa vào công trình của các nhà xã hội học và các nhà triết học thế kỷ XIX - XX để phát triển quan điểm riêng của mình về vấn đề phát triển xã hội. Theo ông, cơ sở ứng xử của con người cũng như của toàn bộ đời sống xã hội là những bản năng, những dục vọng xác định. Trong Các nguyên tắc tái thiết xã hội, ông quan niệm “triết học chính trị căn cứ trên định đề cho rằng xung lượng có hiệu quả mong muốn hơn là mục đích có ý thức trong việc hình thành cuộc sống con người”(28). Xung lượng này có hai loại: xung lượng tư hữu và xung lượng “sáng tạo”. Nhà nước, chiến tranh và sở hữu tư nhân là những biểu hiện chủ yếu của xung lượng tư hữu, còn giáo dục, hôn nhân, tôn giáo là sự hiện thực hóa xung lượng “sáng tạo”. B.Russell đã mô tả toàn bộ lịch sử loài người như kết quả biểu hiện và tác động của các xung lượng này. Theo ông, không phải phương thức sản xuất và tái sản xuất ra phương tiện sinh hoạt của con người, mà những bản năng khác nhau, trong đó có khát vọng thống trị, là cơ sở của tiến trình lịch sử. Rằng, “khát vọng quyền lực và tình yêu quyền lực là các động cơ chủ yếu của những chuyển biến đang diễn ra trong xã hội”(29). Trong Quyền lực, B.Russell thậm chí còn tuyên bố rằng, “chỉ có tình yêu quyền lực là nguyên nhân của những hoạt động quan trọng trong lĩnh vực xã hội và cho phép lý giải đúng lịch sử cổ đại và lịch sử hiện đại”(30).


Sử dụng sự tương tự bề ngoài giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, B.Russell cố gắng chứng minh rằng, khái niệm cơ bản trong các khoa học nhân văn phải là khái niệm “quyền lực” giống như khái niệm “năng lượng” trong vật lý học. Và, giống như năng lượng, quyền lực cũng có các hình thức khác nhau, như lực lượng quân sự, quản lý dân sự, v.v. và nó có thể chuyển từ một hình thức này sang hình thức khác. Nhiệm vụ của các khoa học xã hội là tìm ra các quy luật của sự chuyển hóa ấy. Ông viết: “Thử nghiệm chỉ khảo cứu một hình thức nào đó của quyền lực, đặc biệt là hiện nay, thí dụ như quyền lực kinh tế, đã và vẫn tiếp tục là cội nguồn của những sai lầm chính trị”(31).


B.Russell đã bỏ qua cách tiếp cận lịch sử - cụ thể đối với vấn đề quyền lực và bạo lực. Trong các công trình lý luận, bao giờ ông cũng viết về quyền lực nói chung một cách rất trừu tượng. Theo ông, nếu khát vọng quyền lực là bản năng bẩm sinh, thì sự thống trị của giai cấp tư sản là quy luật vĩnh hằng của tự nhiên, không phụ thuộc vào việc cải biến những điều kiện sinh hoạt mang tính lịch sử - xã hội của con người. B.Russell xem xét con người từ góc độ siêu giai cấp, nằm ngoài lịch sử và như là sự hợp nhất giữa động cơ “thiện” và động cơ “ác” trong ứng xử xã hội.


Trong các tác phẩm được viết vào những năm 60 của thế kỷ XX, B.Russell ủng hộ lý luận “đa nhân tố” trong cải biến xã hội. Ông cho rằng, không thể tách nhân tố chủ yếu ra từ tổng thể những nhân tố quyết định những biến đổi lịch sử, mà chỉ có thể xác định một số sự tương tác giữa chúng. Theo ông, kinh tế và quan hệ hôn nhân - gia đình thể hiện ra là các nhân tố có tác động như nhau trong suốt toàn bộ lịch sử. Từ quan hệ qua lại giữa chúng, người ta, không thể tách biệt “sự chiếm ưu thế của một nhân tố này đối với nhân tố khác, xét từ góc độ quan hệ nhân quả”(32). Xuất phát từ quan niệm này, một lần nữa, B.Russell lại đi đến kết luận rằng, chúng ta không thể xác lập được các quy luật lịch sử khách quan và do vậy, sử học không phải là khoa học, mà chỉ là sự mô tả hàng loạt những ngẫu nhiên, trong đó vai trò đặc biệt cần phải dành cho hoạt động của các vĩ nhân. Tuy nhiên, ông cũng thường khẳng định rằng, trong lịch sử văn hóa, “cơ sở của thế giới quan biến đổi tuỳ thuộc vào kỹ thuật”(33).


Phân tích sự hình thành và phát triển của xã hội và vai trò của cá nhân trong xã hội, B.Russell quan tâm nhiều đến vấn đề tự do cá nhân và lương tâm cá nhân, dân chủ hóa văn hóa và giáo dục. Nhìn chung, những suy luận của ông về các vấn đề này mang tính chất khai sáng và nhân văn. Điều này đã khiến một số nhà nghiên cứu so sánh ông với Voltaire. Với toàn bộ ưu điểm của mình, các tác phẩm của B.Russell vẫn có một hạn chế chung: không phân tích cụ thể con người bị áp bức trong điều kiện xã hội hiện đại như là cái tạo ra cảm giác sợ hãi và bị đàn áp ở con người phương Tây hiện đại, mặc dù bản thân ông lên tiếng chống lại trạng thái bị áp bức và đàn áp một cách mãnh mẽ. Các tác phẩm viết về lĩnh vực tôn giáo: Bản chất của tôn giáo (1912), Tôn giáo và giáo hội (1916), Tại sao tôi lại không phải là tín đồ Kitô giáo? (1927), Tôn giáo có đóng góp hữu ích cho nền văn minh hay không? (1930), v.v. đã làm cho B.Russell nổi tiếng thế giới không kém gì các tác phẩm mà ông viết về lôgíc toán.


Trong những năm cuối đời, trái ngược với “đạo đức học duy cảm” mà B.Russell từng là người ủng hộ vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, ông đã cố gắng xây dựng quan điểm đạo đức vị lợi mới, phù hợp với chế độ xã hội và coi đó là “phương tiện để đạt tới phúc lợi chung”(34). Đây là một biến thể của “chủ nghĩa xã hội dân chủ” nổi tiếng của các thành viên Công đảng. B.Russell đã không thể đi xa hơn, bởi chủ nghĩa hoài nghi đã cản trở ông trở thành người vô thần, giống như nó đã cản trở Hume cách đó 2 thế kỷ.


B.Russell đã cho chúng ta thấy hình ảnh phức tạp và mâu thuẫn của một nhà triết học phương Tây kiệt xuất của thế kỷ XX. Con người ông là một sự hợp nhất những ảo tưởng của chủ nghĩa tự do sơ khai trong chính trị và những sai lầm của chủ nghĩa duy tâm trong nhận thức luận cùng với chủ nghĩa nhân văn khai sáng và khát vọng xuất phát không phải từ các truyền thống lỗi thời, mà từ những thành tựu của tri thức khoa học nói chung, của tri thức lôgíc toán hiện đại trong triết học. Sự hợp nhất này đã làm phong phú thêm hệ vấn đề của triết học đương thời, mặc dù nó không đem lại những kết quả hữu hiệu. B.Russell đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lĩnh vực lôgíc toán. Những vấn đề ông đặt ra sẽ còn làm cho các nhà khoa học phải trăn trở. Nhận xét về ông, chủ biên công trình kỷ niệm B.Russell - Bertrand B.Russell - nhà triết học của thế kỷ (1967) đã có nhận xét xác đáng rằng, “đóng góp của B.Russell cho lôgíc toán là đáng kể và căn bản nhất kể từ thời Aristotes”(35), và chỉ có Frege mới có thể sánh được với ông về những thành tựu này.


Chúng tôi đánh giá cao những đóng góp của B.Russell đối với việc phát triển lôgíc học và việc giải quyết những vấn đề lôgíc học của lý luận nhận thức. Chúng tôi cũng đánh giá cao tư tưởng nhân văn và cuộc đấu tranh tích cực vì hòa bình trong những năm cuối đời của ông. Mặc dù vậy, trong vấn đề quan hệ giữa khoa học và tôn giáo, B.Russell vẫn chịu ảnh hưởng sâu nặng của văn hóa Cận đại, khi ông đem khoa học đối đầu với tôn giáo mà không nhận thấy những giá trị nhân văn cao cả được loài người tích tụ hàng nghìn năm trong tôn giáo. Chúng ta cần phải học tập tinh thần dũng cảm tự phê bình của B.Russell, bởi ông là người luôn công khai thừa nhận những sai lầm của bản thân và mạnh dạn phê phán những giá trị tinh thần đã trở nên lỗi thời của xã hội đương thời. Đây là một bài học lớn mà B.Russell đã để lại cho chúng ta.
 


(*) Thạc sĩ. Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

(1) Chúng tôi xin liệt kê một số tài liệu quan trọng nghiên cứu về B.Russell gần đây: L.W.Aiken. Bertrand Russell’s Philosophy of Moral. N.Y., 1993; Al.Wood. Bertrand Russell, the Passionate Sceptic, A Biography. L., 1998; John Lewis. Bertrand Russell, Philosopher and Humanist. L., 1998; E.R.Eames. Bertrand Russell’s Theory of Knowledge. L., 1999; P.Grawshay, Williams. Russell Remembered. L., 2000; H.Gottshalk. Bertrand Russell. L., 2005; D.F.Pears. Bertrand Russell and the British Tradition in Philosophy. L., 2005, v.v..

(2) B.Russell. My Philosophical Development. L., 1959, p.38.

(3) B.Russell. Mysticism and Logic. L., 1931, p.125.

(4) B.Russell. Philosophy Problem. L., 1914, p.17.

(5) B.Russell. My Philosophical Development. L., 1959, p.74.

(6) B.Russell. Introduction to Mathematical Philosophy. L., 1919, p.144.

(7) B.Russell, A.N.Whitehead. Principia Mathematica. L., 1925, p.VII.

(8) B.Russell. Ibid., p.74.

(9) B.Russell. Our Knowledge of the External World as a Field for Scientific Method in Philosophy. L., 1915, p.239.

(10) B.Russell. Our Knowledge of the External World as a Field for Scientific Method in Philosophy. L., 1915, p.4.

(11) B.Russell. The Analysis of Matter. N.Y., 1954, p.7.

(12) B.Russell. Our Knowledge of the External World as a Field for Scientific Method in Philosophy. L., 1915, p.4.

(13) B.Russell. The Analysis of Mind. L., 1921, p.307.

(14) B.Russell. The Analysis of Matter. N.Y., 1954, p.27.

(15) B.Russell. “Human Knowledge: It Scope and Limits”. L., 1950, p.35.

(16) B.Russell. Ibid., p.261.

(17) B.Russell. Ibid., p.240.

(18) B.Russell. My Philosophical Development. L., 1959, p.230.

(19) The Autobiography of Bertrand Russell, Vol.2, 1914-1944. L., 1968, p.110.

(20) B.Russell. Authority and Individual. L., 1949, p.7.

(21) B.Russell. Ibid., p.10.

(22) The Autobiography of Russell, vol. 2, p.150.

0